SKKN Sử dụng kết hợp các phương pháp: đàm thoại gợi mở, nêu vấn đề, đóng vai và trò chơi sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18. đô thị hóa Địa lí 12 - Chuẩn
Không có một phương pháp dạy học nào là vạn năng. Mỗi phương pháp dạy học đều có tác động tích cực đối với một số mặt học tập của học sinh. Chính vì vậy trong một bài học cần phải có sự phối hợp hợp lí các phương pháp dạy học khác nhau. Việc xác định hay lựa chọn các phương pháp dạy học có một vị trí quan trọng trong thiết kế bài dạy, vì nó có tính quyết định đến việc thực hiện mục tiêu và chất lượng dạy học.
Ở nước ta, mục tiêu giáo dục đã có những thay đổi quan trọng. Trong dạy học, đã chú trọng, đề cao vai trò, lợi ích của người học để người học tự phát triển. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, đề cao hoạt động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh trong quá trình nhận thức dưới sự tổ chức, điều khiển, chỉ đạo của giáo viên.Trong dạy học địa lí mục tiêu về nhận thức thường có bốn cấp độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao. Mỗi một mục tiêu cụ thể thông thường phải thực hiện bằng một hay một số phương pháp dạy học thích hợp.
Thực tế cho thấy, để giờ học đạt được mục tiêu giáo dục, không nhàm chán, không có vài học sinh quay ngang, quay dọc, hay một vài học sinh ngáp ngủ, lim dim, thậm chí có em đã gục xuống bàn . thì việc kết hợp các phương pháp dạy học là rất cần thiết. Cần phải cân nhắc thật kĩ việc lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp với nội dung, đối tượng dạy học. Không có một phương pháp nào thích hợp với tất cả các nội dung. Mỗi phương pháp dạy học chỉ thích ứng với một nội dung nhất định và phù hợp với đối tượng cụ thể.Vì vậy khi lựa chọn phương pháp phải căn cứ vào nội dung bài dạy, lớp dạy.
Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận giáo viên lạm dụng một, hai phương pháp cho một bài dạy. Do phương pháp không phù hợp với nội dung hoặc sử dụng một phương pháp dẫn đến sự nhàm chán, kết quả là tiết dạy đó không đạt được mục tiêu giáo dục đề ra. Qua nghiên cứu bài học và thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng khi dạy bài 18. Đô thị hóa Địa lí 12 – Chuẩn, sử dụng kết hợp bốn phương pháp: đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi tiếp sức mang lại hiệu quả cao ở những lớp được áp dụng. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm: “Sử dụng kết hợp phương pháp đàm thoại: gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18. Đô thị hóa - Địa lí 12 – Chuẩn”. Với những kiến thức của bản thân về vấn đề này còn nhiều hạn chế nhất định, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được quý thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp đón đọc và đóng góp động viên chân thành để sáng kiến ngày hoàn chỉnh hơn.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG KẾT HỢP CÁC PHƯƠNG PHÁP: ĐÀM THOẠI GỢI MỞ, NÊU VẤN ĐỀ, ĐÓNG VAI VÀ TRÒ CHƠI SƯ PHẠM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TRONG DẠY HỌC BÀI 18. ĐÔ THỊ HÓA ĐỊA LÍ 12 - CHUẨN. Người thực hiện: LÊ THỊ THẮM Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc môn: Địa lí THANH HOÁ, NĂM 2017 MỤC LỤC 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài. Không có một phương pháp dạy học nào là vạn năng. Mỗi phương pháp dạy học đều có tác động tích cực đối với một số mặt học tập của học sinh. Chính vì vậy trong một bài học cần phải có sự phối hợp hợp lí các phương pháp dạy học khác nhau. Việc xác định hay lựa chọn các phương pháp dạy học có một vị trí quan trọng trong thiết kế bài dạy, vì nó có tính quyết định đến việc thực hiện mục tiêu và chất lượng dạy học. Ở nước ta, mục tiêu giáo dục đã có những thay đổi quan trọng. Trong dạy học, đã chú trọng, đề cao vai trò, lợi ích của người học để người học tự phát triển. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, đề cao hoạt động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh trong quá trình nhận thức dưới sự tổ chức, điều khiển, chỉ đạo của giáo viên.Trong dạy học địa lí mục tiêu về nhận thức thường có bốn cấp độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao. Mỗi một mục tiêu cụ thể thông thường phải thực hiện bằng một hay một số phương pháp dạy học thích hợp. Thực tế cho thấy, để giờ học đạt được mục tiêu giáo dục, không nhàm chán, không có vài học sinh quay ngang, quay dọc, hay một vài học sinh ngáp ngủ, lim dim, thậm chí có em đã gục xuống bàn. thì việc kết hợp các phương pháp dạy học là rất cần thiết. Cần phải cân nhắc thật kĩ việc lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp với nội dung, đối tượng dạy học. Không có một phương pháp nào thích hợp với tất cả các nội dung. Mỗi phương pháp dạy học chỉ thích ứng với một nội dung nhất định và phù hợp với đối tượng cụ thể.Vì vậy khi lựa chọn phương pháp phải căn cứ vào nội dung bài dạy, lớp dạy. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận giáo viên lạm dụng một, hai phương pháp cho một bài dạy. Do phương pháp không phù hợp với nội dung hoặc sử dụng một phương pháp dẫn đến sự nhàm chán, kết quả là tiết dạy đó không đạt được mục tiêu giáo dục đề ra. Qua nghiên cứu bài học và thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng khi dạy bài 18. Đô thị hóa Địa lí 12 – Chuẩn, sử dụng kết hợp bốn phương pháp: đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi tiếp sức mang lại hiệu quả cao ở những lớp được áp dụng. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm: “Sử dụng kết hợp phương pháp đàm thoại: gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18. Đô thị hóa - Địa lí 12 – Chuẩn”. Với những kiến thức của bản thân về vấn đề này còn nhiều hạn chế nhất định, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được quý thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp đón đọc và đóng góp động viên chân thành để sáng kiến ngày hoàn chỉnh hơn. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Phục vụ chương trình đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Phát huy tính tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của học sinh trong học tập. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Nghiên cứu sự kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi tiếp sức nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18. Đô thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn. - Sách giáo khoa Địa lí 12- Chuẩn. - Học sinh khối 12, đặc biêt lớp 12C8, 12C9. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận. 2.1.1. Phương pháp dạy học đàm thoại gợi mở. - Đàm thoại gợi mở là phương pháp mà trong đó giáo viên biên soạn câu hỏi, thông báo cho học sinh. Sau đó chia câu hỏi thành một số câu hỏi nhỏ hơn có quan hệ logic với nhau tạo ra những cái mốc trên con đường thực hiện câu hỏi lớn[1]. . - Các yêu cầu đối với câu hỏi: + Câu hỏi phải có mục đích, dứt khoát, rõ ràng, tránh những câu hỏi không nhằm vào mục đích cụ thể, chung chung[1]. . + Câu hỏi phải bám sát nội dung cơ bản[1]. . + Câu hỏi phải sát với trình độ học sinh. Tránh những câu hỏi học sinh không thể trả lời được hoặc những câu hỏi dễ quá không cần phải suy nghĩ[1]. - Một số dạng câu hỏi: + Câu hỏi biết: nhằm yêu cầu học sinh nhắc lại, tái hiện lại kiến thức[1]. + Câu hỏi hiểu: yêu cầu học sinh diễn đạt lại bằng ngôn ngữ của mình những kiến thức đã học[1]. . + Câu hỏi vận dụng: yêu cầu học sinh phân tích, giải thích nguyên nhân hay kết quả của một hiện tượng[1]. . - Kỹ thuật sử dụng câu hỏi: Giáo viên nêu câu hỏi, thu hút sự chú ý của học sinh, một vài em trả lời các em khác nhận xét bổ sung ý kiến. Cần tránh đàm thoại gợi mở với cả lớp thành đàm thoại với một em. Giáo viên tỏ thái độ thân mật, cởi mở, tin tưởng , khích lệ học sinh, chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh. Sau khi học sinh trả lời giáo viên cần có nhận xét bổ sung và chuẩn kiến thức[1]. 2.1.2. Phương pháp nêu vấn đề. Dạy học nêu vấn đề là đặt trước học sinh một vấn đề hay một hệ thống những vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, kích thích hoạt động tư duy tích cực của các em . Điểm mấu chốt của phương pháp dạy học nêu vấn đề là ở chỗ làm thế nào để xuất hiện tình huống có vấn đề[1]. . - Tình huống có vấn đề thường xuất hiện ở các trường hợp sau: + Vấn đề đặt ra có thể là một mâu thuẫn giữa những kiến thức đã có của học sinh với những kiến thức mới[1]. . + Vấn đề đặt ra có thể là một nghịch lí, một sự kiện bất ngờ, một điều gì đó không bình thường so với cách hiểu cũ của học sinh [1]. Trong trang này nội dung được tham khảo ở tài liệu tham khảo số 1. + Vấn đề đặt ra có thể là một sự kiện, một hiện tượng mới mà học sinh không thể dùng những hiểu biết, những vốn tri thức cũ để giải thích được[1]. + Vấn đề đặt ra trong trường hợp học sinh đứng trước sự lựa chọn một phương án trong số nhiều phương án, mà xem ra phương án nào cũng hợp lí[1]. Có thể thấy phương pháp nêu vấn đề trong dạy học địa lí có một số nội dung giống phương pháp đàm thoại gợi mở nhưng thực chất không hẳn là hoàn toàn như vậy. Bỡi câu hỏi trong phương pháp nêu vấn đề bắt buộc phải chứa đựng mâu thuẫn nhận thức[1]. . 2.1.3. Phương pháp đóng vai. Phương pháp đóng vai là một phương pháp gây sự chú ý, thu hút người học tham gia vào bài giảng. Đây cũng là một phương pháp tạo bầu không khí sôi nỗi cho lớp học , từ đó người dạy và người học trở nên thân thiện, gần gũi với nhau hơn, tác động tích cực để giờ giảng đạt hiệu quả cao[2]. - Các bước thực hiện: + Biên soạn kịch bản: nội dung kịch bản phải liên quan đến nội dung bài học. Có thể kịch bản đơn giản chỉ là ý tưởng[2]. + Chọn diễn viên và giao nhiệm vụ cho diễn viên: căn cứ vào nội dung và các nhân vật trong kịch bản, giáo viên chọn diễn viên phù hợp với vai diễn[2]. + Thực hiện vai diễn: người học nhập vai và thể hiện vai diễn. Cả lớp cùng quan sát. Giáo viên quan sát và cắt vở diễn đúng lúc[2]. + Trao đổi với người học về vở diễn: Sau màn diễn, giáo viên trao đổi, hỏi đáp cùng cả lớp những nhận xét, suy nghĩ quanh nội dung, những vấn đề thể hiện[2]. + Giáo viên tổng kết: kết nối ý kiến người học với mục đích kịch bản, bổ sung ý kiến và định hướng vào nội dung bài học[2]. Lưu ý: về thời gian, kịch bản cần kịch tính, hấp dẫn, chọn diễn viên phù hợp, diễn viên cần có đủ thời gian để chuẩn bị, diễn viên tránh quay lưng xuống lớp khi diễn. Giáo viên bố trí lớp học sao cho cả lớp cùng quan sát được..Khi tuyên bố chấm dứt giáo viên phải dứt khoát[2]. . 2.1.4. Trò chơi sư phạm. Trò chơi sư phạm là hoạt động bổ trợ cho giờ giảng, bao hàm sự tham gia tích cực của người học về thể chất và tinh thần của người học vào các vận động thể chất và tinh thần nhất định, nhằm tạo không khí vui vẻ thoải mái trong lớp học, khiến người học tiếp thu bài học hiệu quả[2]. Trong trang này: phần tiếp theo của mục 2.1.2 được tham khảo ở TLTK số 1. Mục 2.1.3 và mục 2.1.4 được tham khảo ở TLTK số 2. Trò chơi sư phạn ngoài mục đích giải trí còn gắn với mục tiêu học tập, là hình thức học mà chơi, chơi mà học, việc học trở nên tích cực, chủ động, tự giác hơn, từ đó giúp người học thích thú, nhớ lâu hơn[2]. - Các yêu cầu cần thiết của trò chơi: luật chơi, người điều khiển trò chơi, trọng tài, hình thức thưởng – phạt[2]. - Lưu ý: Trò chơi phải phù hợp với đối tượng chơi. Trò chơi cần mang tính giáo dục cao, mục đích chơi định hướng tới mục đích giáo dục. Khi trò chơi kết thúc , giáo viên cần cùng người học rút ra nội dung của bài học[2]. . 2.2. Thực trạng của vấn đề. 2.2.1. Thuận lợi. - Ban Giám hiệu Trường THPT Yên Định 2 rất quan tâm đến vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao hiệu quả giáo dục. - Học sinh Trường THPT Yên Định 2 có truyền thống hiếu học, ham hiểu biết nên việc ứng dụng sáng kiến vào trong giảng dạy có nhiều thuận lợi hơn. - Cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng đổi mới, hiện đại, đáp ứng yêu cầu giảng dạy (trang bị thêm nhiều phòng máy, thiết bị trợ giảng) - Qua khảo sát điều tra giáo viên dạy môn Địa lí ở các Trường THPT Yên Định 2( 3 giáo viên), Trường THPT Yên Định 1 ( 3 giáo viên), Trường THPT Yên Định 3 (2 giáo viên) và Trường THCS&THPT Thống Nhất ( 2 giáo viên), thì có tới 60% giáo viên quan niệm là rất quan trọng và 30% quan niệm là quan trọng khi kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mở, nêu vấn đề, đóng vai và trò chơi sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18.Đô thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mỡ, nêu vấn đề, đóng vai, trò chơi sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18. Đô thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn. 2.2.2. Khó khăn. - Vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên ( chiếm 10% ) cho rằng không qun trọng lắm việc kết hợp các phương pháp đàm thoại gợi mở, nêu vấn đề, đóng vai và trò chơi tiếp sức nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18.Đô thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn. Họ cho rằng chỉ cần đổi mới phương pháp dạy học là đủ. - Không phải bài học Địa lí nào cũng có thể áp dụng các phương pháp trên trong giảng dạy. Có những bài, những nội dung thích hợp với các phương pháp đó nhưng lại có những bài, những nội dung không phù hợp, giáo viên phải là người nghiên cứu sách giáo khoa, tìm tòi, phát hiện và sử dụng sao cho phù hợp Trong trang này: phần tiếp theo của mục 2.1.4 được tham khảo từ TLTK số 2, phần còn lại “của” tác giả . - Vẫn còn một bộ phận nhỏ học sinh còn lười học, đôi khi sẽ quấy rối giờ học nếu giáo viên giảng dạy không dứt khoát. Ví dụ như đối với phương pháp đóng vai, học sinh cố tình kéo dài vỡ diễn gây mất thời gian, hay ở trò chơi sư phạm quan trọng hóa phần thắng- thua gây mất đoàn kết, ảnh hưởng đến không khí học tập trong lớp cũng như ảnh hưởng đến giờ học của lớp khác. - Một bộ phận nhỏ học sinh cho rằng môn Địa lí là môn phụ nên không chú ý học, không tích cực tham gia các hoạt động học, từ đó gây khó khăn cho giáo viên trong quá trình thực hiện các phương pháp. - Một bộ phận giáo viên ngại áp dụng các phương pháp như đóng vai và trò chơi tiếp sức nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong dạy học bài 18.Đô thị hóa- Địa lí 12- Chuẩn vì sợ ảnh hưởng tiếng ồn đến lớp bên cạnh. 2.3. Giải pháp giải quyết vấn đề. Một số phương pháp như đóng vai hay trò chơi tiếp sức còn tương đối mới mẻ đối với học sinh nên trước khi thực nghiệm tôi đã tiến hành giảng dạy không áp dụng các phương pháp trên ở hai lớp 12C1, 12C2, kết quả đạt được chưa cao. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn áp dụng ở lớp 12C8 (lớp thực nghiệm) và 12C9 (lớp đối chứng) cụ thể như sau: 2.3.1. Phương pháp dạy học đàm thoại gợi mở . * Câu hỏi áp dụng cho mục a trong phần 1. Đặc điểm - Câu hỏi lớn: Chứng minh quá trình đô thị hóa của nước ta diễn ra chậm chạp, trình độ đô thị hóa thấp? - Hệ thống câu hỏi nhỏ phục vụ trả lời câu hỏi lớn: + Đô thị đầu tiên của nước ta xuất hiện vào thời gian nào? Có tên là gì? → Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Đô thị đầu tiên của nước ta xuất hiện từ rất sớm – thế kỉ III trước CN đó là thành Cổ Loa của nước Âu Lạc.) +Quá trình đô thị hóa giữa các thời kì và giữa hai miền Nam- Bắc có giống nhau không? → Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức bằng việc sử dụng trò chơi sư phạm ở phần 2.3.4). + Tại sao quá trình đô thị hóa giữa các thời kì và giữa hai miền Nam- Bắc không giống nhau? → Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Do ảnh hưởng nặng nề bỡi chiến tranh, tốc độ phát triển kinh tế còn chậm. + Chứng minh trình độ đô thị hóa ở nước ta thuộc loại thấp? → Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Cơ sở vật hạ tầng còn nghèo nàn, lạc hậu, xuống cấp đặc biệt là hệ thống giao thông, điện, nước, các công trình phúc lợi, đa số các đô thị loại nhỏ, đời sống dân cư còn thấp. * Câu hỏi áp dụng cho phần b, c mục 1. Đặc điểm. - Dựa vào bảng 18.1 SGK , nhận xét sự thay đổi số dân thành thị và tỉ lệ dân thành thị của nước ta giai đoạn 1990-2005? Tại sao có sự thay đổi đó? → Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Số dân thành thị và tỉ lệ dân thành thị của nước ta tăng liên tục trong giai đoạn 1990-2005. Tốc độ tăng số dân thành thị năm 2005 là 172,8% so với năm 1990. tỉ lệ dân thành thị tăng từ 19,5% năm 1990 lên 26,9% năm 2005. Nguyên nhân: kết quả của quá trình CNH_HĐH; mở rộng địa giới của một số thành phố, thị xã; dân di cư vào các đô thị.. - Dựa vào bảng 18.2 SGK , nhận xét sự phân bố đô thị và số dân đô thị giữa các vùng trong cả nước năm 2006? → Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Vùng có số lượng đô thị nhiều nhất là trung du và miền núi Bắc Bộ- 167 đô thị- gấp 3 lần vùng có số lượng đô thị thấp nhất là Đông Nam Bộ. Số dân đô thị đông nhất thuộc về Đông Nam Bộ và thấp nhất Tây Nguyên. Đa số đô thị nước ta là đô thị nhỏ và trung bình, đô thị là thành phố rất ít. * Lưu ý: Khi đặt câu hỏi, giáo viên cần thu hút sự chú ý của tất cả các em. Khi một em trả lời phải khéo léo lôi cuốn sự chú ý của các em khác. Giáo viên phải quan tâm đến tất cả học sinh khi gọi học sinh trả lời. Giáo viên phải thể hiện được sự thân mật, cởi mở, tin tưởng học sinh. Học sinh chủ động trả lời và lĩnh hội kiến thức. 2.3.2. Phương pháp nêu vấn đề. Như tôi đã trình bày ở phần cơ sở lí luận, câu hỏi nêu vấn đề phải là câu hỏi đặt trước học sinh một vấn đề hay một hệ thống những vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, kích thích hoạt động tư duy tích cực của các em. Việc xây dựng các câu hỏi có vấn đề phải dựa vào những tình huống có vấn đề thì mới có thể xây dựng câu hỏi nêu vấn đề. Đối với bài này có thể xây dựng được các câu hỏi nêu vấn đề lồng ghép với phương pháp đàm thoại gợi mở ở các nội dung sau: - Phần a và c trong mục 1. Đặc điểm. Các tình huống có vấn đề như sau: Tình huống có vấn đề thứ nhất là: + Đô thị đầu tiên của nước ta xuất hiện từ rất sớm (thế kỉ III Trước công nguyên) mà hiện nay tỉ lệ dân thành thị của nước ta mới chỉ đạt 26,9%.Tại sao lại như vậy? Điều đó có mâu thuẫn không và nó chứng tỏ được điều gì? → Học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Mặc dù đô thị đầu tiên của nước ta xuất hiện từ rất sớm nhưng đến nay tỉ lệ dân thành thị của nước ta mới chỉ đạt 26,9% ( thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới). Điều đó chứng tỏ quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra chậm chạp. Tình huống có vấn đề thứ hai là: + Đông Nam Bộ là vùng có số lượng đô thị ít nhất, vậy có phải là vùng có số dân đô thị thấp nhất, quy mô dân số/ đô thị sẽ thấp nhất? Ngược lại Trung du và miền núi Bắc Bộ có số lượng đô thị nhiều nhất thì sẽ là vùng có số dân đô thị đông nhất và quy mô dân số/ đô thị sẽ cao nhất? → Học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức: Đông Nam Bộ có số lượng đô thị ít nhất nhưng lại là vùng có số dân đô thị cao nhất nên số dân thành thị/ đô thị cao nhất thuộc về Đông Nam Bộ. Trung du và miền núi bắc Bộ: có số lượng đô thị nhiều nhất nhưng không phải là vùng có số dân đô thị đông nhất nên số dân thành thị/ đô thị thấp nhất thuộc về Trung du và miền núi bắc Bộ. Điều đó chứng tỏ sức hấp dẫn và quá trình đô thị hóa ở Đông Nam Bộ cao hơn nhiều so với Trung du và miền núi Bắc Bộ và với các vùng khác trong cả nước. * Lưu ý: Nội dung trong sách giáo khoa Địa lí hiện nay thường ít chứa đựng các vấn đề nhận thức. Đây là một trong những khó khăn cho giáo viên khi áp dụng phương pháp nêu vấn đề. Để khắc phục điều này, giáo viên cần tìm tòi, phát hiện và xây dựng tình huống có vấn đề trong từng nội dung, từng đơn vị kiến thức nếu có thể. 2.3.3. Phương pháp đóng vai. Phương pháp này áp dụng cho mục 2. Mạng lưới đô thị. Cụ thể: - Bước 1. Biên soạn kịch bản: Nội dung của kịch bản là nội dung của mục 2. - Bước 2: Chọn diễn viên và giao nhiệm vụ cho diễn viên. + Giáo viên chọn một vài em hoặc cho cả lớp chuẩn bị kĩ nội dung hỏi trước ở nhà sau đó giáo viên sẽ chọn ngẫu nhiên một em. + Giáo viên chọn một số em hoặc cũng có thể là cả lớp chuẩn bị nội dung trả lời và xác định các nội dung trên bản đồ treo tường sau đó cử ngẫu nhiên một em. - Bước 3: Thực hiện việc đóng vai. + Người diễn thứ nhất sẽ đóng vai hỏi: Nếu giả sử bạn là một hướng dẫn viên du lịch, một người khách du lịch muốn biết về các đô thị, cách phân loại các đô thị ở Việt nam thì bạn sẽ giới thiệu như thế nào? ( Ví dụ như: Dựa vào các tiêu chí như: số dân, chức năng, một độ dân số.mạng lưới đô thị nước ta được phân làm mấy loại? Đó là những loại nào? Xác định trên bản đồ. Nếu căn cứ vào cấp quản lí đô thị thì đô thị ở nước ta phân loại như thế nào? Xác định trên bản đồ các đô thị đó?) + Người diễn thứ hai sẽ đóng vai trả lời và chỉ trên bản đồ treo tường hoặc trên các slides. - Bước 4: Trao đổi với người học về vở diễn. Sau màn diễn, giáo viên trao đổi, hỏi đáp cùng cả lớp về những nhận xét , nội dung về cách phân loại đô thị. Nhận xét về việc xác định các đô thị đó trên bản đồ. - Bước 5: Giáo viên tổng kêt, chuẩn kiến thức → Giáo viên chuẩn kiến thức: Dựa vào các tiêu chí như số dân, chức năng, mật độ dân sốmạng lưới đô thị nước ta phân làm 6 loại ( loại đặc biệt: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh; loại 1: Hải Phòng, Đà Nẵng..; loại 2,3,4,5) Căn cứ vào cấp quản lí: đô thị nước ta được phân làm hai loại là: đô thị trực thuộc Trung ương và đô thị trực thuộc tỉnh. * Lưu ý: chọn người diễn phải tự nhiên, diễn cảm, nhập vai diễn. Trong tình huống này người trả lời nên vừa trả lời vừa chỉ trên bản đồ . Nếu có kiến thức về du lịch thì có thể giới thiệu cho người khách những nét nổi bật của một vài đô thị với chức năng chue yếu là du lịch, tuy nhiên không được diễn quá sâu phần này. Giáo viên phải là người biết cắt vở diễn đúng lúc. 2.3.4. Trò chơi sư phạm.. * Trò chơi 1: Áp dụng cho đơn vị kiến thức : Quá trình đô thị hóa không giống nhau giữa các thời kì và giữa hai miền Nam- Bắc. Cụ thể: - Bước 1: Giáo viên chia lớp làm 2 nhóm ( dãy bên tay phải là nhóm 1, dãy bên tay trái là nhóm 2). Mỗi nhóm cử 1 bạn đại diện nhóm lên chơi. Giáo viên là trọng tài. Thời gian cho các đội chơi là 2 phút. - Bước 2: Nội dung chơi: Ghép các bảng kiến thức ở cột A sao cho phù hợp với cột B. Thời kì ( Cột A) Đặc điểm (Cột B) Thời Pháp thuộc Do quá trình CNH-HĐH nên quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh. Sau cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Mỹ. Hệ thống đô thị không có cơ hội mở rộng, Pháp dùng chính sách chia để trị nên mạng lưới đô thị mang tính hành chính- quân sự. Sau năm 1975. Ở niềm Nam dân hồi hương, trong cả nước dân cư được điều động đi xây dựng vùng kinh tế mới nên tỉ lệ dân thành thị thấp. Hiện nay Ở miền Nam do bị dồn dân vào các thành phố, ở miền bắc dân lánh nạn ở nông thôn trở về thành phố, công cuộc xây dựng và khôi phục kinh tế nên tỉ lệ dân thành thị cao. - Bước 3: Giáo viên phổ biến luật chơi: Đại diện của nhóm sẽ ghép hoặc nối (tùy vào cách lựa chọn của giáo viên) nội dung ở cột A sao cho tương ứng với nội dung ở cột B với thời gian nhanh nhất, đúng nhất. Đội nào nối được nhiều nội dung đúng trong thời gian ngắn nhất sẽ là đội chiến thắng. - Bước 4: Giáo viên chấm điểm và chuẩn kiến thức:
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_ket_hop_cac_phuong_phap_dam_thoai_goi_mo_neu_va.doc