SKKN So sánh cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam - Định hướng cảm thụ hai tác phẩm: “chữ người tử tù” và “hai đứa trẻ”

SKKN So sánh cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam - Định hướng cảm thụ hai tác phẩm: “chữ người tử tù” và “hai đứa trẻ”

Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai nhà văn lớn, có phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo, và có nhiều đóng góp đặc trưng cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Hai nhà văn này mặc dù có phong cách sáng tác khác nhau, nhưng giữa họ cũng có những điểm tương đồng thú vị. Đặc biệt, họ đều được mệnh danh là nhà văn của cái đẹp.

Sau bao lần thay đổi chương trình, sách giáo khoa, tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân vẫn được chọn đưa vào nhà trường Việt Nam, từ bậc THCS đến đại học và sau đại học. Đặc biệt, ở chương trình Ngữ văn THPT mà chúng tôi đang thực hiện, hai tác giả này đều có tác phẩm được đưa vào giới hạn của mọi kỳ thi.

Nói đến văn chương là nói đến cái đẹp. Tìm đến cái đẹp là tìm đến cái đích của văn chương, tìm vào cái đẹp của Thạch Lam và Nguyễn Tuân (những người suốt đời đi tìm cái đẹp) lại càng trở nên hết sức cần thiết.

Từ thực tiễn giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi chúng tôi thấy tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân nói chung, cái đẹp trong văn của hai tác giả này nói riêng luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhưng đây lại là vấn đề rất khó cho cả giáo viên và học sinh.

 

doc 20 trang thuychi01 54661
Bạn đang xem tài liệu "SKKN So sánh cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam - Định hướng cảm thụ hai tác phẩm: “chữ người tử tù” và “hai đứa trẻ”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC
NỘI DUNG
TRANG
1. MỞ ĐẦU
2
1.1.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2
1.2.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
2
1.3.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2
1.4.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3
2. NỘI DUNG
4
2.1.
Cở sở lí luận
4
2.2.
Thực trạng của vấn đề - Cơ sở thực tiễn
5
2.3.
Giải quyết vấn đề - So sánh cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam - Định hướng cảm thụ Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam từ góc độ so sánh
5
2.3.1.
Nguyễn Tuân - “người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”
5
2.3.2.
Thạch Lam: người “ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể”
8
2.3.3.
Đặc trưng Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam
10
2.3.4.
Định hướng cảm thụ Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân từ góc độ so sánh.
11
2.4. 
 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
17
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19
3.1.
Kết luận
19
3.2.
Kiến nghị
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
20
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai nhà văn lớn, có phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo, và có nhiều đóng góp đặc trưng cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Hai nhà văn này mặc dù có phong cách sáng tác khác nhau, nhưng giữa họ cũng có những điểm tương đồng thú vị. Đặc biệt, họ đều được mệnh danh là nhà văn của cái đẹp.
Sau bao lần thay đổi chương trình, sách giáo khoa, tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân vẫn được chọn đưa vào nhà trường Việt Nam, từ bậc THCS đến đại học và sau đại học. Đặc biệt, ở chương trình Ngữ văn THPT mà chúng tôi đang thực hiện, hai tác giả này đều có tác phẩm được đưa vào giới hạn của mọi kỳ thi.
Nói đến văn chương là nói đến cái đẹp. Tìm đến cái đẹp là tìm đến cái đích của văn chương, tìm vào cái đẹp của Thạch Lam và Nguyễn Tuân (những người suốt đời đi tìm cái đẹp) lại càng trở nên hết sức cần thiết.
Từ thực tiễn giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi chúng tôi thấy tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân nói chung, cái đẹp trong văn của hai tác giả này nói riêng luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhưng đây lại là vấn đề rất khó cho cả giáo viên và học sinh.
Khảo sát hệ thống các công trình nghiên cứu về Thạch Lam và Nguyễn Tuân chúng tôi thấy chưa có công trình nào chỉ ra đặc trưng về cái đẹp trong tác phẩm của hai nhà văn này trong mối quan hệ so sánh.
Từ những lí do trên đây, kết hợp với nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân và niềm say mê hai tác giả nổi tiếng này, chúng tôi chọn đề tài Cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân dưới góc nhìn so sánh để nghiên cứu.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Chọn đề tài này để nghiên cứu chúng tôi hướng đến mục đích: đưa ra một tài liệu đáng tin cậy, có cơ sở khoa học để giúp giáo viên và học sinh ở trường THPT tham khảo khi giảng dạy và học tập tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Đề tài này đi vào khám phá cái đẹp – một phương diện nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Thực hiện đề tài này sẽ góp phần giúp bản thân và đồng nghiệp cũng như các em học sinh khám phá tác phẩm của hai nhà văn này một cách đúng hướng. Từ đó nhìn nhận, đánh giá đúng giá trị và những đóng góp của các nhà văn này.
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đặt ra một số nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, phải chỉ ra và chứng minh, lí giải được cái đẹp trên hành trình sáng tạo của Thạch Lam và Nguyễn Tuân.
Thứ hai, so sánh để tìm ra những điểm đặc trưng của hai nhà văn này ở phương diện cái đẹp.
Thứ ba, đưa ra hướng khai thác một số tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam và Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn THPT.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Về ngữ liệu, những khái quát trong đề tài xuất phát từ toàn bộ tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân, trong đó chúng tôi đặc biệt chú trọng vào ba tác phẩm trong chương trình Ngữ văn THPT (Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân).
Về nội dung, cái đẹp biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng, từ nội dung phản ánh đến hình thức nghệ thuật. Đề tài của chúng tôi dù ít nhiều có nói đến hình thức nghệ thuật, nhưng chúng tôi chủ yếu tập trung vào cái đẹp với tư cách là một phương diện thuộc về nội dung phản ánh trong tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này chúng tôi kết hợp vận dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Cái đẹp là điều kiện tiên quyết của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Việc khám phá cái đẹp trong tác phẩm văn học vì thế sẽ trở nên cần thiết. Thạch Lam và Nguyễn Tuân lâu nay đã được giới nghiên cứu suy tôn là những Nhà văn của Cái đẹp. Vì vậy, tìm hiểu cái đẹp trong tác phẩm của hai nhà văn này dưới góc nhìn so sánh để tìm ra đặc trưng của mỗi nhà văn là hướng nghiên cứu tìm vào đúng bản chất của văn chương nói chung và bản sắc của hai nhà văn này nói riêng.
Trước hết, cái đẹp là phạm trù trung tâm của mĩ học. Trong lịch sử tư tưởng mĩ học, phạm trù cái đẹp xuất hiện từ rất sớm. Từ xa xưa, các nhà mĩ học duy tâm khách quan (tiêu biểu như Platon, Hegel) lí giải nguồn gốc của cái đẹp từ trong thế giới ý niệm, xem cái đẹp là hồi quang của ý niệm siêu nhiên, thần thánh. Ngược lại, các nhà mĩ học duy tâm chủ quan lại tuyệt đối hóa cái đẹp theo quan niệm chủ quan, tìm nguồn gốc của cái đẹp trong ý thức của chủ thể, trong cảm xúc cá nhân. Nhà mĩ học Hume quả quyết rằng: “Cái đẹp không phải là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự vật, nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát nó” [10,53]. Còn nhà triết học học người Đức Kant thì cho rằng: “Cái đẹp không ở trên đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ si tình” [3,83]. Đến thế kỷ XX, các nhà mĩ học dân chủ cách mạng Nga đã kéo cái đẹp trở về với mảnh đất trần thế, họ cho rằng ở đâu có cuộc sống là ở đó có cái đẹp. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của cái đẹp, nhà nghiên cứu Tsernushevski đưa ra định nghĩa: “Cái đẹp là cuộc sống” [12,24]. Kế thừa thành tự của mĩ học trước đó, mĩ học Marx – Lenin lí giải rằng: “Bản chất của cái đẹp là sự thống nhất biện chứng giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan” [2,76]. Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử mĩ học từ cổ đại đến hiện đại, các tác giả của cuốn sách Mĩ học đại cương đưa ra khái niệm: “Cái đẹp là một phạm trù thẩm mĩ dùng để chỉ một phẩm chất thẩm mĩ của sự vật khi nó phù hợp với quan niệm của con người về sự hoàn thiện và tính lí tưởng, có khả năng gợi lên ở con người một thái độ thẩm mĩ tích cực do sự tác động qua lại giữa đối tượng và chủ thể” [2,83].
Như vậy, nhìn vào lịch sử tư tưởng mĩ học chúng ta thấy rằng quan niệm cụ thể về cái đẹp có thể khác nhau, thậm chí là đối lập nhau giữa các trường phái mĩ học, nhưng cái đẹp luôn được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất, phổ biến nhất, và là điểm tựa trung tâm để con người đánh giá đời sống về mặt thẩm mĩ; cái đẹp bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ thẩm mĩ giữa con người với hiện thực.
Trong tác phẩm nghệ thuật, cái đẹp là yếu tố giữ vai trò then chốt. Bàn về phương diện này, nhà nghiên cứu Bielinski từng khẳng định: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lí” [8,77]. Cũng cần phải nói thêm rằng, nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng không phải là nơi độc quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng đó lại là nơi tập trung nhất, lãnh trách nhiệm nặng nề nhất trong việc tìm kiếm, sáng tạo và thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp cho xã hội.
Cái đẹp trong tác phẩm văn học được thể hiện hết sức phong phú, đa dạng. Có thể là cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người, cái đẹp của tư tưởng tình cảm, cái đẹp của hình thức nghệ thuật. Xét riêng về nội dung phản ánh, văn học không chỉ phản ánh cái đẹp một chiều. Trong tác phẩm văn học, nhà văn có thể miêu tả cả cái xấu, cái ác, nhưng ngay cả khi các nhà văn miêu tả cái ác cái xấu thì mục đích của họ cũng là hướng về cái đẹp. Miêu tả cái ác cái xấu vì thế trở thành một phương thức để tác động, cải tạo con người và xã hội. Đúng như nhà văn Thạch Lam từng viết: “... văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn” [4].
Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là tìm kiếm, nâng đỡ và sáng tạo cái đẹp, thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp cho con người. Bởi vậy mỗi nhà văn là một vị sứ giả của cái đẹp. Hành trình sáng tác của họ là hành trình tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp, hướng con người và xã hội đến với cái đẹp. Nhưng mỗi nhà văn lại có một hướng đi riêng, một cách thể hiện riêng. Ở đây chúng tôi chỉ tập trung bàn về cái đẹp với tư cách là một yếu tố thuộc về nội dung phản ánh trong quan niệm và thực tiễn sáng tác của hai cây bút tiêu biểu: Thạch lam và Nguyễn Tuân.
2.2. Thực trạng của vấn đề - Cơ sở thực tiễn
Tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân đã có mặt trong chương trình Ngữ văn phổ thông hàng chục năm nay, thế nhưng thực tiễn dạy - học tác phẩm của hai nhà văn này cho đến nay vẫn còn nhiều bất cập. Qua thực tiễn dạy học của bản thân và các đồng nghiệp từ nhiều cơ sở giáo dục chúng tôi thấy rất nhiều thầy cô giáo chưa có cái nhìn khái quát về sự nghiệp văn học của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Sự hiểu biết về hai nhà văn này ở nhà trường chỉ mới đạt được chiều rộng mà chưa có bề sâu, chưa đi đúng vào bản sắc riêng, đóng góp riêng của mỗi nhà văn. Thạch Lam và Nguyễn Tuân là những nhà văn của cái đẹp, nhưng cái đẹp trong tác phẩm của họ có đặc điểm gì? Có giá trị thẩm mĩ ra sao? Cái đẹp của nhà văn này khác cái đẹp của nhà văn kia chỗ nào thì ít ai lí giải được.
Khi áp dụng hướng khai thác được trình bày trong đề tài này vào thực tế giảng dạy, đặc biệt là giảng dạy cho đối tượng học sinh giỏi, chúng tôi nhận thấy các em học sinh hết sức thích thú và say mê đón nhận. Kết quả cho thấy, ít nhất là các em không còn tâm lí “sợ độ khó” khi tiếp cận hai nhà văn độc đáo này. Hướng khai thác của đề tài này cũng đã được các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm ghi nhận và đề nghị triển khai rộng rãi hơn cho mọi đối tượng học sinh.
2.3. Giải quyết vấn đề - So sánh cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam – Định hướng cảm thụ Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam từ góc độ so sánh 
2.3.1. Nguyễn Tuân - “người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”
“Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật” (Nguyễn Đình Thi, Điếu văn truy điệu Nguyễn Tuân). Lời khẳng định của Nguyễn Đình Thi có thể được minh chứng bằng chính hành trình sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân “muốn mỗi ngày có được cái say sưa như là men rượu tối tân hôn”, và ông mải miết đi tìm cái đẹp để thỏa mãn nhu cầu ấy. Nhưng ở xã hội Việt Nam thời bấy giờ cái đẹp chân chính thật không dễ tìm chút nào, nói như nhà văn Nguyễn Đình Thi thì “Trong cuộc đời ông sống, cái đẹp và cái thật không bao giờ khớp được với nhau”. Bất mãn với xã hội, không tìm thấy cái đẹp trong hiện tại, Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá khứ một thời vang bóng. Tập truyện Vang bóng một thời là sự khởi đầu cho hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Qua tập truyện này Nguyễn Tuân đã làm sống lại những phong tục tập quán của dân tộc, những thú chơi tao nhã – những “thanh âm trong trẻo” trong một xã hội hỗn loạn xô bồ mà Nguyễn Tuân gọi là xã hội “ối a ba phèng”. Chẳng hạn, ở truyện Những chiếc ấm đất, ông cụ Sáu mê uống trà tầu, mà nước pha trà phải là thứ nước lấy ở cái giếng tận trên chùa Đồi Mai. “Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú quí nhãn tiền không bằng một ấm trà tầu”. Kể cả khi thất cơ lỡ vận, ông cụ Sáu vẫn “quen thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp mùa hoa nở, cụ còn cố bứt lấy ít nhị đem ướp luôn vào gói trà giắt trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ”. Truyện Chén trà trong sương sớm lại còn miêu tả tỉ mỉ hơn cái thú uống trà của lớp người xưa cũ ấy. Đối với gia đình cụ Ấm, việc uống trà còn gắn liền với việc bình văn, ngâm thơ buổi sớm. Cụ có thói quen uống trà từ lúc “trời còn tối đất”. Cách uống trà của cụ Ấm trở thành một thứ lễ nghi. Chưa bao giờ ông cụ dám cẩu thả trong cái “thú chơi thanh đạm” này mà đã để vào đấy bao nhiêu công phu, bởi vì theo cụ “trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một triết lí”.
Truyện Hương cuội khiến người đọc thích thú, thán phục bởi một kiểu tiêu khiển khác, vừa quen thuộc vừa độc đáo của cụ Kép: “Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc mặc áo lông trắng lom khom tỉa những lá úa vàng trong đám lá xanh”. Cụ “nguyện đem cả quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý”. Lòng yêu hoa của cụ Kép thật đặc biệt, “mỗi lần có người động mạnh vào giò lan đen, cụ Kép lại suýt xoa như có người châm kim vào da thịt mình”.
Nguyễn Tuân còn đặc biệt thích thú trước tục thả thơ, đánh thơ. Trong Vang bóng một thời, hai truyện ngắn Thả thơ và Đánh thơ đã tạo cho người đọc những “khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt” bởi vì nhà văn “đã dạy cho ta nghệ thuật sống để tận hưởng ý vị tinh túy, sâu sắc của cuộc sống”.
Vậy là, ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, để thỏa mãn nhu cầu săn tìm cái đẹp và phản kháng lại xã hội, Nguyễn Tuân đã tìm về với những phong tục văn hóa, những nét đẹp truyền thống của cha ông. Ông viết về thú uống trà, về việc thả thơ, đánh thơ, chơi chữ, với một giọng điệu say sưa và thái độ trân trọng, ngợi ca. Nguyễn Tuân say vẻ đẹp văn hóa cổ truyền như say men rượu tối tân hôn. Điều đó cho thấy sự tài hoa, uyên bác và tấm lòng yêu nước thiết tha, sâu sắc và kín đáo của nhà văn.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân bắt tay làm lành với xã hội. Lúc này ông không còn phải tìm về quá khứ với thái độ hoài cổ, tiếc nuối nữa, mà tìm cái đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Ông nhận thấy “phong cảnh tự nhiên của ta thật là lớn đẹp, con người mình cũng phải lớn đẹp theo lên với nó. Núi sông lúc nào cũng nhắc nhở ta, mỗi ngày trưởng thành lại đem thêm cái đẹp hình học, cái đẹp kỹ thuật, cái đẹp nhân tạo và hiện đại vào giữa cái đẹp thiên tạo đủ cả núi dựng thành, sông uốn khúc” [9,189]. Nếu trước đây Nguyễn Tuân xê dịch, phiêu lưu tìm cái đẹp trong tâm trạng của một người “thiếu quê hương”, thèm khát được làm chủ giang sơn đất nước, thì sau Cách mạng ông cũng xê dịch, nhưng là xê dịch đến các chiến dịch, đến các công trường, bến cảng, đến những vùng miền xa xôi của thời kỳ đổi mới. Nếu trước đây văn Nguyễn Tuân có giọng điệu giễu nhại, thì nay chỉ thấy đặc một giọng điệu ngợi ca. Nào là “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi”, nào là ông lái đò với tay lái ra hoa như một nghệ sĩ trên mặt trận lao động, nào là con sông Đà cuộn mình như mái tóc dài của người thiếu nữ đa tình,...
Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân gắn liền với chất tài hoa tài tử. Dưới ngòi bút của ông, cảnh vật và con người bao giờ cũng hiện lên ở với đầy đủ những vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Đặc điểm ấy trở thành một nét lớn, thể hiện thống nhất và xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông. Điều đáng nói là ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân thường chú ý đến chất tài hoa tài tử khi miêu tả con người và cảnh vật. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp thường đi đôi, gắn bó với cái tài, với chất nghệ sĩ, điều này cũng thống nhất với nét tài hoa, nghệ sĩ trong con người ông. Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân tỏ lòng mến mộ, yêu quý những con người tài hoa mà thất thế hay những lãng tử giang hồ. Ví dụ ở truyện Đánh thơ, Nguyễn Tuân gọi đôi vợ chồng lãng tử bằng một cái tên trìu mến "Một lứa đôi tài tử". Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh và chưa bao giờ "nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một chỗ nhất định nào". Ngay đến cả cái chết chất lãng tử cũng được Nguyễn Tuân miêu tả hết sức đậm nét: "Đi qua Hoành Sơn quan thấy cảnh đẹp, lòng sinh tình, hai ông mụ đã yêu nhau giữa một vùng trời nước bao la... Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa ra ma chết sát ngay bên đường thiên lý". Trong truyện Ngôi mả cũ nhân vật Hồ Viễn vốn là ông tướng oai phong lẫm liệt một thời, nay vì thất thế mà trở thành một ông thầy địa lý nhưng vẫn giữ được nét tài hoa. Con người này luôn mang một phong thái ung dung, nhàn nhã đầy chất nghệ sĩ: "Những lúc việc quân thong thả, cụ mặc áo dài "sường sám", đội mũ "sường chí" có những quả bông đỏ, cầm quạt,... trông nhàn nhã và văn vẻ lắm". Đáng chú ý hơn là cụ Hồ Viễn có tài viết chữ rất đẹp: "Chữ thầy viết có gân cứng cỏi như lá thiếp,... nét sổ rất khỏe và rất thẳng". Trong Một cảnh thu muộn, ông Cử Hai là "người có hoa tay" lại "thêm được chút tâm hồn lãng tử" nên "sống cuộc đời cũng như người ta chơi bời mà thôi”. Ông không chú tâm việc gì mà chỉ thích đi hội Đạp Thanh để làm thơ tức cảnh, lên núi hái lá thuốc, ngắm trăng trên đỉnh Sài Sơn. Đặc biệt, nói đến chất tài hoa tải tử, không thể không nhắc đến Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Con người tài hoa ấy có tài "viết chữ rất nhanh và đẹp" nổi tiếng cả vùng tỉnh Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên quản ngục đã từng ao ước "có được chữ của ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Con người ấy quả đúng là “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Hãy nghe lời ông nói với viên quản ngục ta sẽ thấy rõ điều này: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi". Sang giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, chất tài hoa tài tử vẫn là một đặc điểm lớn trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Trong tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân miêu tả ông lái đò với tay lái ra hoa, vượt qua mọi cửa tử cửa sinh của dòng sông Đà hung bạo để trở thành người nghệ sĩ trên mặt trận lao động. Dòng sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân cũng thật lạ, đó là một nhân vật với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình. Đặc biệt, ông miêu tả: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”.
Nhìn lại cuộc đời Nguyễn Tuân chúng ta có thể khẳng định: chất tài hoa tài tử trong các nhân vật của Nguyễn Tuân chính là chất người của ông tỏa vào trong nhân vật, trở thành một điểm phong cách nghệ thuật thể hiện xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Cảm ơn đời đã sinh ra Nguyễn Tuân – một phong cách sống và một phong cách văn độc đáo, góp phần thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của người đọc, góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà.
Nguyễn Tuân là môn đồ của thuyết Nghệ thuật vị nghệ thuật, cái đẹp trong tác phẩm của ông vì thế mang đậm tính duy mĩ. Ông đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở đời, đề cao cái đẹp một cách thuần túy, không vụ lợi. Cái đẹp, văn chương cũng như nghệ thuật, theo ông, không có nội dung xã hội, giai cấp và thời đại. Chính thái độ nâng niu, trân trọng cái đẹp và với cách nhìn nghiêng về nghệ thuật của ông đã tạo nên một Nguyễn Tuân “vị nghệ thuật” trong văn chương. Ông từng phát biểu: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật”. Ở chỗ khác ông khẳng định: “Mĩ thuật vốn không là bà con với luân lí của thời đại” [9,92]. Quan niệm ấy thể hiện rõ nhất trong thực tiễn sáng tác của ông trước cách mạng: một thằng ăn cắp trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh (Chuyến xe tình), một ngón tài bẻ khóa vượt ngục cũng góp phần làm cho Huấn Cao nổi danh trong thiên hạ (Chữ người tử tù), một tên đao phủ “có tài chém đầu người chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy” (Chém treo ngành), tài ném lưỡi mai chết người được miêu tả như một thứ nghệ thuật (Ném bút chì), hay tiếng đàn oan nghiệt ma quái cũng được nhà văn hết lời ca ngợi: “Người ta vừa đàn vừa khóc và người ta đàn đến mức hộc máu ra mà gục chết dưới gốc nhạc khí” (Chùa đàn). Có thể nói rằng, với Nguyễn Tuân, đã tài thì đều đáng khâm phục, không nhất thiết phải xem cái tài đó có lợi hay không.
2.3.2. Thạch Lam: người “ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể”
Thạch Lam quan niệm nhà văn là người đi tìm cái đẹp. Trong tiểu luận Theo dòng ông viết: “Cái đẹp man mác khắp vũ tr

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_so_sanh_cai_dep_trong_van_nguyen_tuan_va_thach_lam_dinh.doc
  • docBIA SKKN 2016- Le Hong Chinh.doc