SKKN Vận dụng kiến thức, kĩ năng, năng lực tiếng Anh vào dạy học một số bài Ngữ Văn trong chương trình THPT

SKKN Vận dụng kiến thức, kĩ năng, năng lực tiếng Anh vào dạy học một số bài Ngữ Văn trong chương trình THPT

 Chúng ta đang sống trong bối cảnh toàn cầu hóa; xu thế hội nhập đang đặt ra những yêu cầu về năng lực ngôn ngữ - năng lực giúp con người đáp ứng những đòi hỏi của công việc, của giao tiếp trong thực tế cuộc sống.Việc định hướng, hỗ trợ năng lực ngôn ngữ cho học sinh, vì thế, hết sức cần thiết.

 Thêm vào đó, trong thực tế dạy học, việc dạy - học kiến thức, kĩ năng một cách đơn thuần, riêng biệt, tách bạch từng môn học sẽ không giúp học sinh thấy được những mối liên hệ, hỗ trợ qua lại giữa các kiến thức, kĩ năng; không có sự xâu chuỗi, hệ thống các vấn đề, cũng như khó có sự phản hồi, xử lí tích cực trong các tình huống thực tế, khó cả trong việc củng cố, khắc sâu lí thuyết.

 Với mong muốn vận dụng những nội dung, phương pháp ở những lĩnh vực, môn học có liên quan nhằm tăng hiệu quả dạy học, đặc biệt chú ý tới năng lực tiếng Anh ở những lớp chuyên ban D (trường THPT Nông Cống I), góp phần phục vụ quá trình dạy học của bản thân và gợi ý cho đồng nghiệp, tôi chọn đề tài – “Vận dụng kiến thức, kĩ năng, năng lực tiếng Anh vào dạy học một số bài Ngữ Văn trong chương trình THPT”

 

docx 22 trang thuychi01 4972
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng kiến thức, kĩ năng, năng lực tiếng Anh vào dạy học một số bài Ngữ Văn trong chương trình THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài
 Chúng ta đang sống trong bối cảnh toàn cầu hóa; xu thế hội nhập đang đặt ra những yêu cầu về năng lực ngôn ngữ - năng lực giúp con người đáp ứng những đòi hỏi của công việc, của giao tiếp trong thực tế cuộc sống.Việc định hướng, hỗ trợ năng lực ngôn ngữ cho học sinh, vì thế, hết sức cần thiết.
 Thêm vào đó, trong thực tế dạy học, việc dạy - học kiến thức, kĩ năng một cách đơn thuần, riêng biệt, tách bạch từng môn học sẽ không giúp học sinh thấy được những mối liên hệ, hỗ trợ qua lại giữa các kiến thức, kĩ năng; không có sự xâu chuỗi, hệ thống các vấn đề, cũng như khó có sự phản hồi, xử lí tích cực trong các tình huống thực tế, khó cả trong việc củng cố, khắc sâu lí thuyết.
 Với mong muốn vận dụng những nội dung, phương pháp ở những lĩnh vực, môn học có liên quan nhằm tăng hiệu quả dạy học, đặc biệt chú ý tới năng lực tiếng Anh ở những lớp chuyên ban D (trường THPT Nông Cống I), góp phần phục vụ quá trình dạy học của bản thân và gợi ý cho đồng nghiệp, tôi chọn đề tài – “Vận dụng kiến thức, kĩ năng, năng lực tiếng Anh vào dạy học một số bài Ngữ Văn trong chương trình THPT”
 Đây chỉ là một vài đề xuất, gợi ý ban đầu, giới thiệu về cách vận dụng, khai thác của bản thân trong tích hợp liên môn Ngữ Văn – Tiếng Anh, vấn đề hiếm được đề cập, cần được tìm hiểu, nghiên cứu thêm. Trong đó, môn học chính được vận dụng là môn Ngữ Văn, môn tích hợp là Tiếng Anh (năng lực tiếng Anh).
 2. Mục đích nghiên cứu
 Đề tài nhằm hướng đến giải quyết vấn đề thực tiễn dạy học ở 3 bài học, thuộc 3 phân môn (hợp phần) Ngữ Văn (Tiếng Việt, Văn học sử, Đọc văn):
Tiếng Việt: Đặc điểm loại hình tiếng Việt (Ngữ Văn 11, tập 2) - yêu cầu hình thành lí thuyết
Văn học sử: Tác gia Nguyễn Trãi (Phần Cuộc đời, sự nghiêp) (Ngữ Văn 10, tập 2) – yêu cầu củng cố kiến thức văn học sử
Đọc văn: Bài thơ số 28 - Tago (Ngữ Văn 11, tập 2) – yêu cầu nâng cao
 3. Đối tượng nghiên cứu
 - 3 bài học nói trên được tích hợp với những nội dung sau:
- Ngữ pháp tiếng Anh tổng hợp, vấn đề loại hình ngôn ngữ
- Sách GK Tiếng Anh (học sinh) lớp 12, tập 1 (CT thí điểm)
- Nguyên văn Bài thơ số 28 của R.Tago
 4. Phương pháp nghiên cứu: phương pháp so sánh, đối chiếu. Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi, đặc biệt quan trọng trong việc tích hợp, vận dụng kiến thức liên môn, liên hợp phần:
+ Vận dụng những bài học có kiến thức tương đồng, liên quan
+ Vận dụng ở những bộ môn có sự liên quan về nội dung, kĩ năng, phương pháp
 Trong quá trình thực hiện, chúng tôi chú ý đảm bảo yêu cầu của nguyên tắc tích hợp:
+ Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng, đúng mục tiêu cơ bản của bài học, không tham phô bày kiến thức
+ Đảm bảo yêu cầu phù hợp nội dung bài học, phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của trường học, chú ý đối tượng học sinh (ban D – lớp nâng cao tiếng Anh)
+ Việc tích hợp được chú ý không làm quá tải nội dung bài học (có sự cân đối, phân bố, điều chỉnh thời gian linh hoạt, phù hợp, khoa học)
NỘI DUNG 
1. Cơ sở lí luận
 Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã quy định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.” Để thực hiện mục tiêu này, giáo dục phổ thông cần “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống văn hóa, lịch sử, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”[2].
 Nghị quyết đã xác định những yêu cầu cần đạt được về phẩm chất, năng lực của học sinh. 8 phẩm chất chính là: Nhân ái - Khoan dung, Chuyên cần - Tiết kiệm, Trách nhiệm - Kỷ luật, Trung thực - Dũng cảm [2]. Trong đó, 3 năng lực chung mà môn học và hoạt động giáo dục nào cũng cần và có thể hình thành, phát triển cho học sinh, gồm: năng lực tự chủ, năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo. Nhóm thứ hai là những năng lực đặc thù do một hoặc một vài môn học kiến tạo thành, bao gồm: năng lực sử dụng ngôn ngữ (gắn với các môn Ngữ Văn, Ngoại ngữ), năng lực thẩm mĩ (gắn với các môn Nghệ thuật), năng lực tính toán (gắn với Toán và các môn khoa học tự nhiên), năng lực tin học và năng lực thể chất
 Rõ ràng, khi mục tiêu giáo dục đào tạo được thay đổi căn bản, thì bắt buộc chương trình khung, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo cũng phải thay đổi phù hợp.  Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm tiến bộ, trưởng thành. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta được nêu trong văn kiện Đại hội XII, về thực chất, là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực này, hiệu ứng của nó sẽ làm biến đổi tích cực nhiều mặt của đời sống xã hội Việt Nam, trong đó có vấn đề dạy và học ngoại ngữ.
 Tại Diễn đàn Thanh niên khởi nghiệp 2018 với chủ đề “Tìm giải pháp đột phá cho khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam”, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng đã đề xuất sớm công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2 của Việt Nam. Việc tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 sẽ có tầm ảnh hưởng quan trọng đến phát triển giáo dục ở Việt Nam. Bởi lẽ, khả năng học tập suốt đời là một kĩ năng sống tất yếu và quan trọng trong kỉ nguyên của công dân thời đại công nghệ 4.0. Với kiến thức tiếng Anh, người học có thể tự tiếp cận với nguồn tài liệu phong phú hữu ích trên mạng; có nhiều cơ hội việc làm, chủ động, tự tin trong giao tiếp; có điều kiện tốt để hội nhập.
 Dạy học theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc trong dạy học nói chung và dạy Ngữ Văn nói riêng với mục tiêu phát huy tính tích cực của học sinh đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học nhận thức vấn đề một cách toàn diện, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các bộ môn, các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục tính tản mạn, rời rạc trong kiến thức, kĩ năng.[3] Mọi kiến thức trong cuộc sống đều có liên quan với nhau. Các môn học trọng nhà trường ngày càng được biên soạn, cấu trúc và tiếp nhận theo tinh thần, chủ trương tích hợp. Đó là lí do mà các tổ hợp Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội ra đời. Các bộ môn được cấu trúc có sự liên quan, bổ trợ cho nhau. Do mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều ít nhiều có mối liên hệ với nhau; nhiều sự vật, hiện tượng có những điểm tương đồng và cùng một nguồn cội Để nhận biết và giải quyết các sự vật, hiện tượng ấy, cần huy động tổng hợp các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay đang ngày càng xuất hiện các môn khoa học “liên ngành”.
 Thêm vào đó, trong quá trình phát triển của khoa học và giáo dục, nhiều kiến thức, kĩ năng chưa hoặc chưa cần thiết trở thành một môn học trong nhà trường, nhưng lại rất cần chuẩn bị cho học sinh để các em có thể đối mặt với những thách thức của cuộc sống; do đó, cần tích hợp giáo dục các kiến thức và kĩ năng đó thông qua các môn học.
	 Tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn (đề tài bàn về cấp độ liên môn) thành một nội dung thống nhất, dựa trên các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Ở đây là tích hợp liên môn Ngữ Văn – Tiếng Anh.
	 Sự thống nhất của tư duy phân tích và tổng hợp đều rất cần thiết cho việc phát triển của nhận thức, tạo nên hướng tiếp cận, nhận thức một cách biện chứng về mối quan hệ giữa các đối tượng.
2. Cơ sở thực tiễn 
2.1. Những khó khăn, thách thức 
 Thừa nhận tầm quan trọng của việc học tiếng Anh và đưa tiếng Anh thành công cụ đắc lực hỗ trợ cho phát triển đất nước là nhận thức đúng đắn, tiến bộ nhưng thực hiện điều này không dễ dàng. Với giáo dục, các vấn đề như môi trường thực hành, đội ngũ (giáo viên) đang là những thách thức cơ bản. Trước khi có những mục tiêu, chủ trương, chiến lược, chính sách, phương án triển khai cụ thể, phù hợp thuộc tầm vĩ mô, sự triển khai đồng bộ, thống nhất; những cơ sở giáo dục tiên tiến, giáo viên tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm, dạy học tích cực luôn phải sáng tạo, đổi mới, nâng cao năng lực, tự bồi dưỡng, trong đó có nâng cao năng lực tiếng Anh vào dạy học bộ môn.
2.2. Thực trạng vấn đề
 Vấn đề tích hợp không phải là mới, thực tế tích hợp đã mang lại ý nghĩa, kết quả quan trọng trong việc cải cách, đổi mới chương trình SGK, phương pháp dạy học ở ta từ nhiều năm nay, trong đó có môn Ngữ Văn. Dạy học theo quan điểm tích hợp đã góp phần xóa bỏ lối dạy học truyền thống khép kín, tách biệt nhà trường với thế giới bên ngoài, cô lập kiến thức, kĩ năng có liên quan, tách rời lí thuyết và thực tế, lí thuyết với các tình huống cụ thể. Tuy nhiên, việc vận dụng, thực hiện như thế nào cho có hiệu quả là cả một vấn đề.
 Thêm vào đó, nội dung tích hợp mới chỉ được áp dụng chủ yếu giữa các bộ môn Ngữ Văn và GDCD, Lịch Sử, Địa Lí với những mục đích lồng ghép giáo dục môi trường, dân số, pháp luật, tệ nạn xã hội chứ chưa vận dụng được những kiến thức của các phân môn và lĩnh vực khác nhau, đặc biệt liên hệ giữa môn Ngữ Văn và Tiếng Anh còn rất hạn chế. Điều này cũng phụ thuộc vào ý thức, nhận thức và cả năng lực của giáo viên (trong đó có giáo viên THPT). Việc dùng tiếng Anh vào dạy học mới được đề cập, ứng dụng ở một số môn học như Toán, khoa học tự nhiên, ở một số trường chuyên ngữ, một số trường có chương trình đào tạo song bằng; hoặc chỉ mới triển khai trong các hoạt động ngoại khóa và trải nghiệm, các cuộc thi, ví dụ kì thi của Violympic (từ 2013), giải Toán bằng tiếng Anh Vì vậy, chúng ta chưa khai thác được những lợi thế, tiềm năng từ những nội dung cần tích hợp với các môn học khác, trong đó có môn Ngữ Văn. Và vấn đề trên vẫn còn để ngỏ hoặc chưa được nhận thức và triển khai, thực hiện đúng mức cần thiết.
3. Nội dung cụ thể
 Vấn đề ứng dụng này đã được chúng tôi thí điểm, hiện thực hóa trong 2 khóa đào tạo, tại các lớp chuyên ban D của trường (lớp B5 khóa 2015 – 2018, lớp B5 khóa 2018 – 2021)
3.1. Bài 1. Đặc điểm loại hình tiếng Việt (Ngữ Văn lớp 11, tập 2)
 Kiến thức cơ bản
1.Tiếng là đơn vị cơ sở của ngôn ngữ
- Âm tiết có kết cấu chặt chẽ, ranh giới rõ ràng, ở dạng đầy đủ, gồm phụ âm đầu, vần, thanh điệu
2. Từ không biến đổi hình thái
3. Trong các ngôn ngữ thuộc loại ngôn ngữ đơn lập, biện pháp chủ yếu để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp sắp đặt từ theo hình thức trước sau, sử dụng hư từ, thay đổi trật tự sắp xếp của từ, nghĩa của từ
*GV chọn 1 đơn vị kiến thức trong bài học: Đặc điểm “Từ không biến đổi hình thái, biểu thị ngữ pháp bằng hư từ và trật tự từ” để thực hiện vận dụng, tích hợp
Ví dụ 1
BT: HS lấy VD để so sánh, đối chiếu nhằm làm rõ sự khác biệt về đặc điểm loại hình tiếng Việt và tiếng Anh.
- Tôi (1) tặng anh ấy (1) một cuốn sách. Anh ấy(2) cho tôi (2) một cuốn vở.
- I offer him a book (1). He gives me a notebook (2).
 BẢNG ĐỐI CHIẾU 1
Ngôn ngữ
Tiêu chí
Tiếng Việt
Tiếng Anh
Về vai trò ngữ pháp
Có sự thay đổi
Tôi (1) là chủ ngữ
Tôi (2) là bổ ngữ
Anh ấy (1) là bổ ngữ
Anh ấy (2) là chủ ngữ
Có sự thay đổi
 -I (1) là chủ ngữ, me (2) là tân ngữ
 -Him (1) là tân ngữ, He (2) là chủ ngữ
 Về hình thái
 Không có sự biến đổi giữa các từ gạch chân ở câu (1) và câu (2)
Có sự biến đổi hình thái giữa các từ gạch chân ở câu (1) và câu (2), vì có sự thay đổi về vai trò ngữ pháp của từ
He->him, me ->I
Ví dụ 2
 So sánh sự biến đổi hình thái và vai trò biểu thị ngữ pháp của hư từ qua hai động từ tương đương giữa tiếng Việt và tiếng Anh
 BẢNG ĐỐI CHIẾU 2
. Từ 
Sự 
biến hình
Tiếng Việt 
“học”
 (động từ)
Tiếng Anh
“study”
(Verb - V)
Thời/số
Quá khứ
đã học
↓
hư từ
Hiện tại
đang học
 ↓
hư từ
Tương lai
sẽ học
 ↓
hư từ
 Past
studied
Present Simple
study/
studies
Present continuos
am/is/are
+ studying
Từ loại
Tính từ
có học
vô học
 ↓
Yếu tố khác
Động từ
học
Danh từ
sự học
 ↓
Yếu tố khác
Adv (trạngtừ)
studiously
(một cách cần mẫn)
= hardworking
Verb (động từ)
study
Noun (danh từ)
student
=>Từ đó, HS rút ra kết luận về đặc điểm loại hình tiếng Việt:
+ Từ tiếng Việt không biến đổi hình thái
+ Biểu thị ngữ pháp tiếng Việt bởi hư từ và trật tự từ
=>Qua đối chiếu với tiếng Anh, HS rút ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ đơn lập và ngôn ngữ hòa kết (đây là yêu cầu nâng cao), nắm kiến thực bài học một cách dễ dàng, thực tế
3.2. Bài 2. Tác gia Nguyễn Trãi (Ngữ Văn 10, tập 2) (Vận dụng trong 5 -> 7 phút) phần I – CUỘC ĐỜI (trang 9)
Phần ứng dụng: Sách học sinh thí điểm lớp 12, NXB
BT: SGK Tiếng Anh giúp HS biết thêm điều gì quan trọng về con người và cuộc đời Nguyễn Trãi? 
UNIT 1 LIFE STORIES (Bài 1 - Những câu chuyện cuộc sống)
SKILL (page number 12) Kĩ năng (trang 12)
SPEAKING (Luyện nói)
1. Choose the correct sentences (a-d) to complete the conversation between two friends.
A:  Who is he?
B:  Well, in a way, but twenty years later his reputation was restored.
C:   Do you knowany stories about him? An interestin story will hold the attention of your audience an the judges.
D:  I want to see my expression while I'm speaking.
John: Hi, Van. What are you doing? Why are you talking to the mirror?
Van: Well... I'm practising for the storytelling contest next week. (1)
John: I see. The topic is the life of a historical figure, isn’t it?
Van: That’s right. I’ve decided to talk about Nguyen Trai.
..
Van: He was a talented scholar and a skilled strategist. He was born in 1380. He helped King Le Loi to free our country from the invaders in the 15 th century. I admire him for his dedication to our nation.
John: Wow! He is a real national hero. (3).
Van: Yes. I’ll tell the mystery of the Lychee Garden. It’s about an incident which led to the deaths of Nguyen Trai’s extended families.
John: God So his life ended in tragedy?
Van: (4).. And he was nominated a World Cultural Celebrity by UNESCO in 1980. Why don’t you come to the contest and listen to my story?
John: Ok. I will. I really want to know more about this famous man.
 SGK TIẾNG ANH 12, tập 1, trang 12 (CT thí điểm)
*Hướng dẫn vận dụng (GV chọn 1 học sinh khá giỏi trình bày - dịch, tô đậm nội dung quan trọng)
John: Chào Văn. Bạn đang làm gì đấy? Tại sao bạn lại nói chuyện với cái gương?
Văn: Vâng... Tôi đang tập luyện cho cuộc thi kể chuyện vào tuần tới. Tôi muốn nhìn thấy biểu hiện của tôi khi đang nói.
John: Tôi hiểu. Chủ đề là cuộc đời của một nhân vật lịch sử, phải không?
Văn: Đúng. Tôi đã quyết định nói về Nguyễn Trãi. 
John: Nguyễn Trãi? Ông là ai?
Văn: Ông là một học giả tài năng và một chiến lược gia có tay nghề cao. Ông sinh năm 1380. Ông đã giúp vua Lê Lợi để giải phóng đất nước của chúng tôi từ những kẻ xâm lược trong thế kỉ 15. Tôi ngưỡng mộ ông vì những cống hiến của ông cho đất nước của chúng tôi.
John: Wow! Ông là một anh hùng dân tộc thực sự. Bạn có biết câu chuyện gì về ông không? Một câu chuyện thú vị sẽ thu hút sự chú ý của khán giả và giám khảo.
Văn: Tôi sẽ nói về sự kì bí của Lệ Chi Viên. Đó là về một sự cố đã dẫn đến cái chết của gia đình Nguyễn Trãi.
John: Trời!... Vì vậy, cuộc đời của ông đã kết thúc trong bi kịch?
Văn: Vâng, một cách nào đó, nhưng hai mươi năm sau đó danh tiếng của ông đã được phục hồi. Và ông đã được đề cử là danh nhân văn hóa thế giới, được UNESCO công nhận vào năm 1980. Tại sao bạn không đến với cuộc thi và lắng nghe câu chuyện của tôi?
John: Ok. Tôi sẽ đến. Tôi thực sự muốn biết thêm về người đàn ông nổi tiếng này.
Kết quả:
=>Tiết học sẽ trở nên lí thú, hấp dẫn; học sinh sẽ học được Văn qua bài học Tiếng Anh, nâng cao năng lực tiếng Anh qua một tình huống cụ thể, thiết thực.
=>Trên cơ sở đối chiếu giữa các bài học, tham khảo kiến thức liên môn, học sinh khắc sâu kiến thức văn học sử về Nguyễn Trãi (con người và cuộc đời):
+ Ghi nhận về tài năng, đóng góp và cống hiến của Nguyễn Trãi: nhân vật toàn tài số một của lịch sử trung đại Việt Nam
+ Về bi kịch thảm khốc của đời ông: gánh chịu oan khiên thảm khốc vào bậc nhất của lịch sử trung đại
=> HS cũng dễ nhận thấy: Những kiến thức này hoàn toàn thống nhất (xem lại bài văn học sử, phần tác giả trong SGK Ngữ Văn 10)
3.3. Bài 3. Bài thơ số 28 (Tago) (Vận dụng theo yêu cầu nâng cao về năng lực cảm thụ, năng lực ngôn ngữ: dùng từ, diễn đạt cho học sinh chuyên ban. Giáo viên có thể tiến hành ngoại khóa)
BT: Đối chiếu phần nguyên văn (tiếng Anh) và bản dịch thơ. Từ đó, rút ra nhận xét về sự lựa chọn từ ngữ (chuyển ngữ) của dịch giả? Em có thể tìm một khả năng nào khác để thay thế các từ, cụm từ được gạch chân? (HS làm ở nhà và trình bày trong giờ ngoại khóa về thơ Tago)
Nguyên văn Bài số 28 (Tago)
1.Your questioning eyes are sad
They seek to know my meaning as the moon fathom the sea.
I have bared my life before your eyes from end to end, with nothing hidden or held back. That is why you know me not.
2.If were only a gem, I could break it into a hundred pieces and string them into a chain to put on your neck.
If it only a flower, round and small and sweet, I could pluck it from its stem to set it in your hair.
3. But it is a heart, my beloved. Where are its shores and its bottom?
You know not the limits of this kingdom, still you are its Queen.
4. If it were only a moment of pleasure it would flower in an easy smile, and you could see it and read it in a moment.
If it were merely a pain it would melt in limpid tears, reflecting its inmost secret without a word.
5. But it is love, my beloved.
Its pleasure and pain are boundless, and endless its wants and wealth.
It is as near to you as your life, but you can never wholly know it.
Dịch nghĩa
 1. Đôi mắt hỏi của em đang buồn.
 Chúng tìm hiểu ý nghĩa của anh như mặt trăng lướt qua biển.
  Anh đã để trần cuộc sống của anh trước mắt em từ cuối đến cuối, không có gì bị che giấu hay bị giữ lại. Đó là lý do tại sao em không biết anh.
 2. Nếu nó chỉ là một viên ngọc quý, anh có thể phá vỡ nó thành một trăm mảnh và buộc chúng vào một dây chuyền để đặt trên cổ của em.
 Nếu nó chỉ là một bông hoa, tròn và nhỏ và ngọt ngào, anh có thể lấy nó từ thân cây của nó để đặt nó trong tóc của em.
 3. Nhưng đó là một trái tim, người yêu của anh. Bờ biển và đáy của nó ở đâu?Em không biết giới hạn của vương quốc này, em vẫn là hoàng hậu của nó.
 4. Nếu nó chỉ là một khoảnh khắc vui vẻ, nó sẽ nở hoa trong một nụ cười dễ dàng, và em có thể nhìn thấy nó và đọc nó trong giây lát.
 Nếu nó chỉ là một nỗi đau nó sẽ tan chảy trong những giọt nước mắt trào dâng, phản ánh bí mật của nó mà không có lời nào.
 5. Nhưng đó là tình yêu, người yêu của anh. Niềm vui và nỗi đau của nó là vô tận, và bất tận của nó muốn và sự giàu có. Nó gần em như cuộc sống của em, nhưng em không thể hoàn toàn biết nó.
 Bản dịch Bài số 28 (Tago) – SGK Ngữ Văn 11, trang 61,62 - Đào Xuân Quý dịch 
Dịch thơ 
“1. Đôi mắt băn khoăn của em buồn, 
đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh,
như trăng kia muốn vào sâu biển cả.
Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em, 
anh không giấu em một điều gì, 
chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.
2. Nếu đời anh chỉ là viên ngọc, 
anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh,
và xâu thành một chuỗi, quàng vào cổ em
. 
Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa,
 tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng, 
anh sẽ hái nó ra và đặt (cài) lên mái tóc em.
3. Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim. 
Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó. 
Em là nữ hoàng của vương quốc đó, ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu.
4. Nếu trái tim anh là một phút giây lạc thú, nó sẽ nở ra thành nụ cười nhẹ nhõm, 
và em thấu suốt rất nhanh. 
Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau, 
nó sẽ tan ra thành lệ trong, và lặng im phản chiếu nỗi niềm u ẩn.
5. Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu.
Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên. Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu.
Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy, nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu.” (Ngữ Văn 11, tập 2, Đào Xuân Quý dịch)
=>Từ việc nắm vững nguyên văn;

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_van_dung_kien_thuc_ki_nang_nang_luc_tieng_anh_vao_day_h.docx
  • docBia_Huê _NguVan.doc
  • docxDANH MỤC-MỤC LỤC SKKN 2019.docx