SKKN Rèn luyện kỹ năng đưa lý Luận văn học vào bài văn nghị Luận văn học (câu 2 phần II) theo định hướng đề thi THPT quốc gia

SKKN Rèn luyện kỹ năng đưa lý Luận văn học vào bài văn nghị Luận văn học (câu 2 phần II) theo định hướng đề thi THPT quốc gia

 Cùng với những thay đổi lớn trong đổi mới thi THPT Quốc gia 2019, môn Ngữ văn cũng có một số điều chỉnh - điểm mới và đáng lưu ý nhất trong đề thi THPT QG năm 2019 là câu 2 phần làm văn. Mục tiêu của đề thi Ngữ văn hướng tới việc thí sinh tới kĩ năng sử dụng kiến thức văn học, tiếng Việt, lý luận văn học. thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn hiểu và diễn đạt sự hiểu đó càng mạch lạc, trôi chảy và đúng nội dung càng điểm cao.

 Một bài văn được xem là có chất văn, được xem là bài văn hay là bài văn hội tụ rất nhiều yếu tố: văn viết mượt mà, truyền cảm,văn viết giàu tính sáng tạo,văn viết có chất lý luận. Và một bài văn hay giống như một bông hoa đẹp, vừa ngạt ngào hương thơm, vừa lộng lẫy sắc mầu, và lý luận văn học là một trong những hương thơm, sắc màu làm cho bài văn có sức hấp dẫn với người chấm. Nhưng làm thế nào kích lệ được niềm yêu, say văn và đặc biệt nhận về kết quả mãn nguyện của một mùa “ cày cấy” – kỳ thi THPT quốc gia ? Làm thế nào để có được bí kíp “hái quả ngọt” - đạt được điểm cao của phần thi này trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia năm 2019. Đó là câu hỏi trăn trở trong tôi sau các kỳ thi.

 Sau những lần trực tiếp phụ trách chấm thi môn Ngữ văn – kỳ thi THPT quốc gia tại tỉnh Thanh Hóa, tôi nhận ra một thực tế: bài viết của học sinh thường sa vào phân tích rất sâu những kiến thức văn học mà quên đi lồng ghép kiến thức lý luận văn học và những bài văn đạt điểm giỏi là những bài biết vận dụng linh hoạt kiến thức lý luận văn học khiến cho bài viết có một lối đi riêng, có sự thăng hoa trong cảm xúc. Vậy vận dụng kiến thức lý luận văn học vào bài văn nghị luận văn học là vô cùng cần thiết – đây là nền móng để bài viết đạt kết quả cao, là “chìa khóa” gỡ rối cho cả người dạy và người học Văn.

 => Đó cũng là những lý do đưa tôi đến đề tài “Rèn luyện kỹ năng đưa lý luận văn học vào bài văn nghị luận văn học (câu 2 phần II) theo định hướng đề thi THPT quốc gia ” để nghiên cứu, áp dụng vào thực tế giảng dạy ở trường THPT Lam Kinh. Hy vọng những kinh nghiệm nhỏ này sẽ có tác dụng hữu ích với đồng nghiệp và học sinh THPT.

 

doc 19 trang thuychi01 15281
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn luyện kỹ năng đưa lý Luận văn học vào bài văn nghị Luận văn học (câu 2 phần II) theo định hướng đề thi THPT quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
 Cùng với những thay đổi lớn trong đổi mới thi THPT Quốc gia 2019, môn Ngữ văn cũng có một số điều chỉnh - điểm mới và đáng lưu ý nhất trong đề thi THPT QG năm 2019 là câu 2 phần làm văn. Mục tiêu của đề thi Ngữ văn hướng tới việc thí sinh tới kĩ năng sử dụng kiến thức văn học, tiếng Việt, lý luận văn học.. thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn hiểu và diễn đạt sự hiểu đó càng mạch lạc, trôi chảy và đúng nội dung càng điểm cao.
 Một bài văn được xem là có chất văn, được xem là bài văn hay là bài văn hội tụ rất nhiều yếu tố: văn viết mượt mà, truyền cảm,văn viết giàu tính sáng tạo,văn viết có chất lý luận. Và một bài văn hay giống như một bông hoa đẹp, vừa ngạt ngào hương thơm, vừa lộng lẫy sắc mầu, và lý luận văn học là một trong những hương thơm, sắc màu làm cho bài văn có sức hấp dẫn với người chấm... Nhưng làm thế nào kích lệ được niềm yêu, say văn và đặc biệt nhận về kết quả mãn nguyện của một mùa “ cày cấy” – kỳ thi THPT quốc gia ? Làm thế nào để có được bí kíp “hái quả ngọt” - đạt được điểm cao của phần thi này trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia năm 2019. Đó là câu hỏi trăn trở trong tôi sau các kỳ thi. 
 Sau những lần trực tiếp phụ trách chấm thi môn Ngữ văn – kỳ thi THPT quốc gia tại tỉnh Thanh Hóa, tôi nhận ra một thực tế: bài viết của học sinh thường sa vào phân tích rất sâu những kiến thức văn học mà quên đi lồng ghép kiến thức lý luận văn học và những bài văn đạt điểm giỏi là những bài biết vận dụng linh hoạt kiến thức lý luận văn học khiến cho bài viết có một lối đi riêng, có sự thăng hoa trong cảm xúc. Vậy vận dụng kiến thức lý luận văn học vào bài văn nghị luận văn học là vô cùng cần thiết – đây là nền móng để bài viết đạt kết quả cao, là “chìa khóa” gỡ rối cho cả người dạy và người học Văn.
 => Đó cũng là những lý do đưa tôi đến đề tài “Rèn luyện kỹ năng đưa lý luận văn học vào bài văn nghị luận văn học (câu 2 phần II) theo định hướng đề thi THPT quốc gia ” để nghiên cứu, áp dụng vào thực tế giảng dạy ở trường THPT Lam Kinh. Hy vọng những kinh nghiệm nhỏ này sẽ có tác dụng hữu ích với đồng nghiệp và học sinh THPT.
 1.2.Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm “gỡ rối” và góp phần trang bị thêm kiến thức lý luận văn học cũng như kĩ năng đưa lý luận văn học vào bài làm văn cho học sinh cho giáo viên và học sinh khi đối mặt với các kỳ thi chọn học sinh giỏi, đặc biệt với đề thi THPT Quốc gia năm 2019.
- Đi sâu vào trang bị thêm kiến thức lý luận văn học cũng như kĩ năng đưa lý luận văn học vào bài làm văn cho học sinh cho giáo viên và học sinh khi đối mặt với các kỳ thi chọn học sinh giỏi, đặc biệt với đề thi THPT Quốc gia năm 2019. Đèi víi gi¸o viªn Ngữ văn, chúng tôi thiết nghĩ, không có một mục đích nào khác là mong muốn cho học sinh có một “ cẩm nang”,“ phao cứu sinh” , là bí kíp “hái quả ngọt” giúp học sinh đạt điểm cao trong các đợt kiểm tra, đặc biệt kì thi THPT quốc gia 2019.
- Tăng cường được khả năng thực hành cho học sinh thông qua hệ thống các đề thi minh họa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 12 B6 trường THPT Lam Kinh năm học 2017 – 2018, lớp 12 C5 năm học 2018 - 2019
- Câu 2, phần II (Phần Làm văn) trong các đề thi minh họa THPT quốc gia 2018, 2019
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
 - Nghiên cứu lý thuyết :	
 + Tập trung nghiên cứu lý thuyết về lý luận văn học: Đặc trưng của thơ - Thơ hay, phong cách nghệ thuật, tiếp nhận văn học, mối quan hệ nội dung và hình thức văn học, mối quan hệ giữa hiện thực cuộc sống và văn học, quan hệ Tâm và tài, các khuynh hướng sáng tác, vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật...
 + Trao đổi với bạn bè đồng nghiệp phụ trách dạy lớp 12 ở các trường THPT trong khu vực ( THPT Thọ Xuân 5, THPT Lê Lợi, THPT Lê Hoàn, THPT Thọ Xuân 4) và đồng nghiệp trong tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình, Hưng Yên, Nghệ An để tìm ra các giải pháp..
 - Nghiên cứu thực tiễn :
+ Nghiên cứu các đề minh họa THPT quốc gia 2018, 2019 của Bộ GD & ĐT cùng các đề thi của các đồng nghiệp trong trang “Diễn đàn giáo viên tỉnh Thanh Hóa”.
 + Đọc, sửa chữa bài làm của hs lớp 12 trong các đợt khảo sát chất lượng ôn tập. 
 + Chọn 1 đề tổ chức thảo luận trong tổ, thống nhất các ý kiến
 + Tổ chức cho hs làm đề trong các buổi ôn luyện, chấm và rút kinh nghiệm.
 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm: 
- Đề tài sẽ cung cấp một “ cẩm nang” giúp người giáo viên trực tiếp giảng dạy ( đặc biệt đang dạyđội tuyển lớp 11, ôn luyện lớp 12) tìm ra một hướng đi đúng đắn nhằm nâng cao chất lượng dạy học, ôn luyện trong nhà trường. 
- Giúp học sinh có kĩ năng, phương pháp làm bài (câu NLVH 5,0 điểm) cho giáo viên và học sinh khi đối mặt với các kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019 đạt kết quả cao.
- Trang bị thêm những tri thức cuộc sống trong các vấn đề cuộc sống (thái độ, hành động đúng đắn trước các vấn đề xã hội) - đó là hành trang tốt để các em mang theo, không phải chỉ là trong câu chuyện thi cử mà trong cả cuộc sống sau này.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
 Lý luận văn học là chuyên ngành nghiên cứu về mối liên hệ giữ văn học với đời sống, quan hệ văn học với các loại hình nghệ thuật khác, từ đó làm nổi bật
đặc trưng, giá trị, vị trí của văn học.
 Cùng với đó lý luận văn học đi sâu, giải phẫu, khám phá cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học với các yếu tố không gian, thời gian, nhân vật...; Lý luận văn học còn hiểu quá trình vận động và đặc trưng thi pháp nghệ thuật của các xu hướng, trào lưu văn học ->kiến thức lý luận văn học mang tính tổng kết , khám phá những vấn đề cốt lõi, bản chất của văn học.
 Hơn nữa, từ hiểu biết nắm vững kiến thức lý luận văn học đến vận dụng kiến thức ấy vào bài nghị luận văn học là cả một kĩ năng mà không phải học sinh nào cũng làm được. vậy làm sao trong quá trình viết bài nghị luận văn học cần phải vận dụng kiến thức lý luận văn học.
 Khi viết bài nghị luận văn học, học sinh cần tìm hiểu và nắm vững kiến thức lý luận văn học, để lồng ghép, găm cài vào việc mở bài, viết luận điểm, giải thích, đánh giá và diễn đạt... để ý kiến khi đưa ra bình luận, phân tích, cảm nhận có một cơ sở vững chắc, có chiều sâu. Khi bài văn có kiên sthuwcs lý luận văn học thì lập luận, hành văn, diễn đạt sẽ có chủ kiến, lý lẽ , lập luận và những ý kiến bình luận trong bài văn sẽ đúng đắn, khoa học, có chiều sâu cảm
xúc. Những kiến thức lý luận văn học sẽ giúp học sinh phát hiee4nj những tín hiệu thẩm mĩ mang màu sắc khúc chiết, lô gic.
=> Chính vì thế nắm được kiến thức cơ bản của lý luận văn học là một cách giúp người học sinh tự trang bị cho mình một “ cẩm nang”, một “ bí kíp” hái được quả ngọt – đạt được điểm cao trong các kì thi.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
 - Một số giáo viên (gv chưa có kinh nghiệm), chưa thực sự chú trọng vào
trang bị kiến thức lý luận văn học cho học sinh, họ quan niệm: giờ dạy Ngữ văn chủ yếu là dạy đọc hiểu văn bản, bởi điều này góp phần lớn vào việc nâng cao chất lượng giáo dục. Nhiều giáo viên Ngữ văn chưa thực đầu tư thỏa đáng trong các tiết dạy lý luận văn học ( từ lớp 10), để từ đó tích hợp với kiến thức đọc hiểu văn bản, dẫn đến học sinh không nắm chắc, thậm chí không biết gì về lý luận văn học. Dẫn đến việc vận dụng kiến thức lý luận văn học vào bài nghị luận văn học của học sinh là hạn chế, thậm chí là không có.
 - Lối mòn ăn sâu trong tâm thức của người dạy và người học bài văn nghị luận văn học đã được định hình theo từng tác phẩm riêng biệt và cách giải quyết phụ thuộc vào các sách tham khảo bài văn mẫu.
- Lối mòn trong tư duy khiến cả người dạy và người học khó định hình phối hợp giữa nguyên liệu ( kiến thức) và chất phụ gia ( kiến thức lý luận văn học) trong một bài văn.
 - Xuất phát từ tâm lý chung của học sinh đều ngại học lý luận văn học vì sự ám ảnh đây là mảng kiến thức khô khan.
 - Đa phần học sinh có tư tưởng: chỉ cần nắm được kiến thức văn học mà không ý thức được tầm quan trọng của việc sử dụng kiến thức lý luận văn học vào bài viết. dẫn đến những tồn tại đối với học sinh khi làm bài văn nghị luận (sa vào liệt kê kiến thức đơn thuần, thậm chí ôm đồm kiến thức cho một bài viết) 
=> Sự lúng túng cho cả người dạy và người học. Thực trạng này đã khiến tôi trăn trở tìm tòi, phép “gỡ rối” giúp học sinh vận dụng kiên thức đó một cách linh hoạt và nhuần nhuyễn.
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: 
a. Trang bị lí thuyết cơ bản về lý luận văn học cho học sinh.
 Ngoài những kiến thức lý luận trong sách giáo khoa ( Tiết 64 lớp 11: Đọc kịch bản văn học, đọc tiểu thuyết và truyện ngắn.Tiết 12 lớp 12: Mấy ý nghĩ về thơ...), 
 - Thông qua giờ dạy, giáo viên cần cung cấp cho học sinh thêm một số khái niệm, định nghĩa và những vấn đề liên quan đến lý luận để học sinh có cái nhìn phong phú về lý luận. Ví dụ: Những hiểu biết về thơ ca và văn xuôi; Những hiểu biết về chất thơ trong đời sống và trong văn học; Đặc điểm của thơ.
 - Dạy kiến thức lý luận văn học theo từng chủ đề thông qua các buổi ôn luyện và dạy tự chọn: 
 + Đặc trưng văn học: Lý giải những đặc điểm chung nhất của văn học, trả lời các câu hỏi như văn học bắt nguồn từ đâu, đối tượng chủ yếu của văn học là gì, tác phẩm văn học được cấu trúc như thế nào, phương thức phản ánh của
văn học là gì?
 + Chức năng văn học: Trả lời cho câu hỏi: văn học tồn tại nhằm mục đích gì? Văn học phục vụ thế nào cho đời sống của con người?
 + Nhà văn và quá trình sáng tác: Khái quát quy luật sáng tạo nên tác phẩm văn học, những điều kiện về tài năng, phẩm chất, nhân cách của người viết
 + Đặc trưng ngôn từ nghệ thuật: Khái quát các đặc điểm về chất liệu của văn học – ngôn từ nghệ thuật.
 + Đặc trưng thể loại: Khái quát các đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của những thể loại văn học thường gặp như thơ, tự sự (cụ thể là truyện ngắn, tiểu thuyết), hiện tượng tương tác giữa các thể loại.
 + Tiếp nhận văn học: Khái quát các đặc điểm của quá trình đọc, hiểu và chiếm lĩnh tác phẩm văn học
 - Lấy dẫn chứng tiêu biểu trong quá trình dạy học để làm rõ vấn đề. Lý luận văn học có tính chất của một môn lý thuyết, để những kiến thức không khô cứng, xa lạ với học sinh, để học sinh vận dụng một cách nhần nhuyễn giáo viên cần đưa ví dụ vào các bài học. Ví dụ dạy giá trị thẩm mỹ cần liên hệ cái đẹp trong thơ mới, trong các tác phẩm : Chữ người tử tù, hai đứa trẻ, vĩnh biệt Cửu trùng đài...
- Hình thành cho học sinh cách học lý luận văn học như thế nào?
 Cũng như mọi bộ môn nghiên cứu lý thuyết khác, chúng ta tiếp nhận tri thức lí luận văn học trên nhiều cấp độ. Từ thấp đến cao, các cấp độ đó thể hiện như sau:
Biết
Chúng ta biết được các thuật ngữ và các luận điểm lí luận văn học.
Hiểu
Chúng ta có thể  hiểu và diễn đạt chính xác các thuật ngữ và luận điểm lí luận văn học bằng lời văn của mình.
Vận dụng
Chúng ta có thể vận dụng các kiến thức lí luận văn học để lí giải các hiện tượng văn học, các nhận định về lí luận văn học.
Phân tích
Chúng ta có thể phân tích các biểu hiện của vấn đề lí luận văn học trong một hiện tượng văn học cụ thể (tác phẩm, phong cách tác giả, trào lưu văn học, thời kì văn học)
Tổng hợp
Chúng ta có thể tìm ra mối liên hệ giữa các vấn đề lí luận văn học khác nhau, huy động kiến thức của nhiều chủ đề khác nhau để giải quyết vấn đề có tính chất tổng hợp.
Đánh giá
Chúng ta đánh giá được mức độ chính xác, toàn vẹn của một nhận định lí luận văn học và có thể bổ sung, phản biện một cách hợp lý.
Trong định hướng giải quyết các đề thi, các bước luyện tập như sau:
- Bước 1: Tìm hiểu lý thuyết, đọc sách, đọc giáo trình, nghe giáo viên giảng và hỏi.
- Bước 2: Giải quyết đề thi, nhận định đề và lập dàn ý.
- Bước 3: Tiến hành viết bài.
 - Bước 4: Sửa lỗi và rút kinh nghiệm
 - Giúp học sinh nhận ra kiến thức lý luận văn học nằm trong bài làm nghị luận văn học.
 Có thể tạm chia các đề NLVH thường gặp hiện nay thành ba cấp độ:
Cấp độ
Yêu cầu đề
 Đề minh họa
Cấp độ 1
Phân tích các yếu tố cơ bản trong một tác phẩm văn học.
- Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.
 - Cảm nhận về nhân vật Người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Cấp độ 2
Phân tích các yếu tố trong tác phẩm văn học để làm rõ một yêu cầu nào đó.
- Phân tích giá trị nhân đạo trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
- Phân tích chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
- Phân tích tích tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” để cho thấy những chuyển biến trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau CMT8 1945.
Cấp độ 3
Giải quyết một nhận định lí luận văn học.
- Bình luận về ý kiến của nhà thơ Tố Hữu: “Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy”.
- Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự tôn vinh con người bằng cách hình thức nghệ thuật độc đáo. Bày tỏ suy nghĩ về ý kiến trên.
Ở cả ba cấp độ đề trên, ta đều có thể vận dụng kiến thức lí luận văn học.
Ở cấp độ 1, kiến thức lí luận văn học sử dụng chủ yếu ở phần tổng kết để so sánh, đối chiếu, nâng cao vấn đề. 
Ví dụ: Khi phân tích nhân vật bà cụ Tứ (trong truyện ngắn Vợ nhặt), ta có thể so sánh đối chiếu với hình tượng nhân vật người nông dân trước CMT8 để thấy sự kế thừa và phát triển của nhà văn Kim Lân trong truyền thống về đề tài người nông dân. Bằng các kiến thức lí luận văn học về trào lưu văn học, về quá trình phản ánh hiện thực và sự sáng tạo của người nghệ sĩ, ta có thể lí giải phần so sánh, đối chiếu, qua đó làm cho bài viết sâu sắc hơn.
Ở cấp độ 2, kiến thức lí luận văn học thể hiện ở ngay trong những thuật ngữ đề yêu cầu ta làm rõ. “Giá trị nhân đạo” , “chất thơ”, “phong cách sáng tác” đều là những thuật ngữ lí luận văn học. Để giải quyết được các đề ở trên, ta phải nắm được khái niệm của các thuật ngữ, các biểu  hiện của chúng và biết cách phân tích các biểu hiện ấy trong tác phẩm văn học.
Ở cấp độ 3, kiến thức lí luận văn học sẽ được vận dụng trong toàn bài viết. Đây là dạng đề quen thuộc nhất ở các kì thi học sinh giỏi. 
- Rèn kĩ năng cho học sinh hình thành dàn ý của dạng bài giải quyết một vấn đề lí luận văn học 
Dàn ý chung phần thân bài như sau:
Thao tác
Nội dung
Mức độ tư duy
1. Giải thích
- Giải thích các thuật ngữ, các từ ngữ, hình ảnh khó hiểu trong nhận định.
à Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề cần bàn ở đây là gì?
Biết
Hiểu
2. Bàn luận
Sử dụng các kiến thức lí luận văn học để lí giải vấn đề nghị luận. Trả lời cho câu hỏi “vì sao?”
Vận dụng
Tổng hợp
3. Chứng minh
Chọn chi tiết trong tác phẩm để làm rõ các biểu hiện của vấn đề nghị luận.
Phân tích
4. Đánh giá
- Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị luận.
- Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có)
Đánh giá
5. Liên hệ
Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình sáng tác và bạn đọc trong quá trình tiếp nhận.
Vận dụng
b. Hình thành cho học sinh những nguyên tắc quan trọng khi đưa lý luận văn học vào bài nghị luận văn học. 
 - Hai thao tác quan trọng: khái quát hóa, cụ thể hóa vấn đề nghị luận:
Thao tác giải thích là thao tác đầu tiên và tiên quyết đối với một bài NLVH yêu cầu giải quyết vấn đề lí luận văn học. Sai một li, đi một dặm. Nếu xác định sai vấn đề nghị luận thì mọi nỗ lực sau đó đều đổ sông đổ biển. Cho nên vấn đề nghị luận luôn phải được diễn đạt một cách rõ ràng, cụ thể ngay từ trong mở bài, và kế đến là phần giải thích trong thân bài. Trong bài văn đã đọc ở trên, vấn đề nghị luận được giới thiệu một cách rất rõ ràng trong đoạn giải thích. Với các đề diễn đạt một cách trừu tượng, ta cần cụ thể hóa vấn đề nghị luận thành các biểu hiện cụ thể. 
Với các đề trích dẫn đoạn văn dài, ta cần xác định nội dung chính của đoạn văn và hệ thống ý phụ. Nội dung chính sẽ là vấn đề cần nghị luận. Hệ thống ý phụ sẽ là các luận điểm cần làm rõ.
 - Kiến thức lí luận văn học phải liên kết với vấn đề nghị luận:
 Kiến thức lí luận được học cung cấp cho ta tiền đề lập luận. Ta cần tạo ra kết luận. Chú ý các kết luận phải liên kết chặt chẽ với vấn đề nghị luận.
 Các tài liệu lí luận văn học cung cấp cho ta các kiến thức nền tảng, các thuật ngữ và các luận điểm lí luận văn học cơ bản. Nhiệm vụ của chúng ta là phải vận dụng các kiến thức ấy để làm rõ một vấn đề nghị luận cụ thể trong bài. 
Trước hết, hãy xem lại một phần đưa lí lẽ trong bài viết đầu bài 
Thứ hai, mọi lập luận đều phải hướng về trung tâm của bài viết là vấn đề nghị luận. Cho nên có thể đi theo công thức cơ bản như sau:Tiền đề (kiến thức lí luận văn học) à Kết luận à Vấn đề nghị luận
- Tạo tính hùng biện cho kiến thức lí luận văn học:
Những kiến thức lí luận ta được học là ngôn ngữ khoa học, phi cá thể và không cảm xúc. Nhưng bài ta viết là nghị luận. Vì thế ta cần tạo âm hưởng hùng biện cho bài viết để tăng tính thuyết phục: có thể trích dẫn danh ngôn, sử dụng cấu trúc phủ định để khẳng định, cấu trúc nghi vấn, vận dụng cách hành văn giàu hình ảnh 
 Đầu tiên, hãy trích dẫn một cách hợp lý các danh ngôn, nhận định của các nhà phê bình về chủ đề lí luận văn học ta đang bàn tới. Những nhận định này sẽ tạo ra sự thuyết phục cho bài viết. Bản thân những nhận định ấy cũng giàu chất văn, vì thế sẽ khiến cho bài văn của ta hấp dẫn hơn. Có thể thấy cách tác giả ở trên vận dụng các danh ngôn thật nhuần nhuyễn:
Tư tưởng nghệ thuật là một trong những yếu tố quyết định tầm vóc của nhà văn và giá trị của tác phẩm. Nguyễn Khải từng nói: “Giá trị của một tác phẩm văn học trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Còn Korolenco thì nhấn mạnh: “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn học”. Tư tưởng sai lầm, lệch lạc, văn học sẽ trở thành công cụ gây tội ác. Lỗ Tấn đã từng nói: “Làm một thầy thuốc kê đơn bốc thuốc bậy chỉ giết chết có một người, làm một viên võ tướng điều binh khiển tướng bậy chỉ nướng hết một đạo quân còn làm một nhà văn viết bậy có thể gây tác hại đến ba thế hệ.” Có được ảnh hưởng hết sức quan trọng như vậy bởi nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của văn học. Văn học không chỉ là “công cụ khám phá, hiểu biết và sáng tạo thực tại xã hội” mà còn tham gia vào quá trình cải tạo xã hội. Nói như Thạch Lam, đó là “thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác”. Văn học góp phần làm cho cuộc sống con người tốt đẹp, trong sáng hơn.
Việc vận dụng đa dạng các kiểu câu một cách hợp lý tạo ra sự phong phú về giọng điệu, khi thì như chất vấn, khi thì như đối thoại, khi tha thiết khi lại dõng dạc. Đó chính là âm hưởng hùng biện của bài viết. Hai cấu trúc thường sử dụng đó là phủ định để khẳng định và câu hỏi tu từ. Những ví dụ sau đây kết hợp cả hai cách diễn đạt.
Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của trái tim. Nhà văn chỉ viết được khi “trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Nếu như các ngành khoa học loại bỏ cái tôi trong nghiên cứu thì các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy cái tôi làm điểm tựa cho sự sáng tạo. Viên Mai đã từng nói: “Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ không thể không có cái tôi”. Thơ nói riêng và văn học nói chung không thể thiếu cái tôi - ở đây là dấu ấn tư tưởng tình cảm của người  nghệ sĩ. Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiện thực cuộc sống, trái tim anh không hề rung động, không hề xúc cảm?
c. Hướng dẫn học sinh cách khai thác dẫn chứng cho những vấn đề cốt lõi về lý luận văn học.
 Dẫn chứng trong bài văn nghị luận chính là những bằng chứng cụ thể để người viết thuyết phục người nghe tin vào những phán đoán mà mình đã nêu ra. Một bài văn nghị luận mà không có hoặc thiếu dẫn chứng thì sẽ thiếu sức thuyết phục. Đặc biệt với các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh và quốc gia các em phải luyện kỹ năng chọn và phân tích dẫn chứng sao cho những vấn đề lý luận văn học không phải được trình bày một cách sáo rỗng mà phải thật tự nhiên và thuyết phục.
 - Các yêu cầu của dẫn chứng:Dẫn chứng trong văn nghị luận cần đáp ứng các yêu cầu sau: chính xác, đủ, tiêu biểu và có tính mới.
Yêu cầu thứ nhất: dẫn chứng phải chính xác.
 Bài viết không có dẫn chứng thì không có sức thuyết phục, dẫn chứng không chính xác thì cũng chẳng có tác dụng gì. Nếu là thơ phải trích nguyên văn, nếu là văn xuôi thì tóm lược ý hay trích nguyên văn một số chi tiết, song phải đảm bảo tính chính xác của dẫn chứng bằng việc chú giải nguồn trích dẫn (tên tác phẩm, tác giả,...). Thực tế, không ít bài vi

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ky_nang_dua_ly_luan_van_hoc_vao_bai_van_nghi.doc