SKKN Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú, nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh khi dạy bài Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12 THPT

SKKN Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú, nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh khi dạy bài Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12 THPT

Trong cuộc sống, ai cũng cần đến tri thức. Đặc biệt, HS cần phải học tập, phải chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại để phát triển trí tuệ, hoàn thiện bản thân; bồi dưỡng và phát triển nhân cách của chính mình. Một triết gia đã nói “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Như vậy có thể thấy rầng niềm yêu thích, sự say mê làm nên động lực thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của HS nói riêng, của mỗi người nói chung. Vì thế với cương vị là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển hoat động học tập và chiếm lĩnh kiến thức của HS, người GV phải luôn học hỏi trau dồi kiến thức cũng như phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao độ tính tích cực chủ động sáng tạo của người học. Khơi gợi niềm hứng thú, sự say mê học tập cho HS luôn là niềm quan tâm hàng đầu của người GV.

 Ngữ văn là một môn học thú vị nhưng HS bây giờ luôn không thích học văn, ngại học văn vì các em phần lớn đều cho rằng môn này khó; cần phải có năng khiếu để cảm thụ văn chương. Thực tế cho thấy những năm gần đây học sinh đều chọn các môn học tự nhiên vừa có nhiều trường để lựa chọn, dễ xin việc mức thu nhập lại cao, rất ít HS lựa chọn học các môn xã hội. Nhiều GV dạy văn nhận thấy trong giờ Ngữ văn các em thường không tập trung, có tâm lí ngại học văn, hoặc học một cách đối phó: để có điểm, để không phải thi lại, để thi tốt nghiệp.Còn những HS thực sự say mê và yêu môn văn thì rất ít.

 Đứng trước vấn đề này, tôi đã phải nỗ lực cố gắng thay đổi các phương pháp và các kỹ thuật dạy học để là tăng cường hứng thú, thu hút và “lôi kéo” HS đến với môn văn của mình (6). Cụ thể là tôi đã mạnh dạn áp dụng vào bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường (Ngữ văn 12, tập 1). Đây là một trong những bài rất khó, không thú vị đối với HS đặc biệt là HS trường tôi.Sau áp dụng vào thực tế giảng dạy của mình trong, tôi thấycó hiệu quả đáng kể. Tôi xin được chia sẻ cùng đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú, nâng cao hiệu quả học tập cho HS khi dạy bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Ngữ văn 12 THPT.

 

docx 23 trang thuychi01 6662
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú, nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh khi dạy bài Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12 THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU:
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 Trong cuộc sống, ai cũng cần đến tri thức. Đặc biệt, HS cần phải học tập, phải chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại để phát triển trí tuệ, hoàn thiện bản thân; bồi dưỡng và phát triển nhân cách của chính mình. Một triết gia đã nói “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Như vậy có thể thấy rầng niềm yêu thích, sự say mê làm nên động lực thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của HS nói riêng, của mỗi người nói chung. Vì thế với cương vị là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển hoat động học tập và chiếm lĩnh kiến thức của HS, người GV phải luôn học hỏi trau dồi kiến thức cũng như phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao độ tính tích cực chủ động sáng tạo của người học. Khơi gợi niềm hứng thú, sự say mê học tập cho HS luôn là niềm quan tâm hàng đầu của người GV.
 Ngữ văn là một môn học thú vị nhưng HS bây giờ luôn không thích học văn, ngại học văn vì các em phần lớn đều cho rằng môn này khó; cần phải có năng khiếu để cảm thụ văn chương. Thực tế cho thấy những năm gần đây học sinh đều chọn các môn học tự nhiên vừa có nhiều trường để lựa chọn, dễ xin việc mức thu nhập lại cao, rất ít HS lựa chọn học các môn xã hội. Nhiều GV dạy văn nhận thấy trong giờ Ngữ văn các em thường không tập trung, có tâm lí ngại học văn, hoặc học một cách đối phó: để có điểm, để không phải thi lại, để thi tốt nghiệp...Còn những HS thực sự say mê và yêu môn văn thì rất ít.
 Đứng trước vấn đề này, tôi đã phải nỗ lực cố gắng thay đổi các phương pháp và các kỹ thuật dạy học để là tăng cường hứng thú, thu hút và “lôi kéo” HS đến với môn văn của mình (6). Cụ thể là tôi đã mạnh dạn áp dụng vào bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường (Ngữ văn 12, tập 1). Đây là một trong những bài rất khó, không thú vị đối với HS đặc biệt là HS trường tôi.Sau áp dụng vào thực tế giảng dạy của mình trong, tôi thấycó hiệu quả đáng kể. Tôi xin được chia sẻ cùng đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nhằm tăng hứng thú, nâng cao hiệu quả học tập cho HS khi dạy bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Ngữ văn 12 THPT.
 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Khơi dậy sự hứng thú, nâng cao hiệu quả học tập cho HS khi học bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” nói riêng, thể loại kí nói chung.
Phát huy tính tích cực, tự giác, tự học của HS trong học tập nói chung và trong môn Ngữ văn nói riêng.
Kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc trong các hoạt động nhóm của HS.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập môn Ngữ văn của HS lớp 12 trong nhà trường.
Rèn luyện cho HS một số kỹ năng sống cần thiết, giúp các em vững vàng, tự tin bước vào đời.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Học sinh các lớp 12A1, 12A4, 12A5 trường THPT Triệu Sơn 6.
+ Lớp 12A4, 12A5 là lớp thực nghiệm.
+ Lớp 12A1 là lớp đối chứng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: 
 Nghiên cứu các tài liệu, sách, các chuyên đề về PPDH, KTDH tích cực... để hình thành cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp điều tra: 
 Thực hiện tại lớp 12A1, 12A4 và 12A5 trường THPT Triệu Sơn 6.
- Phương pháp quan sát: 
 Quan sát hoạt động học của HS lớp 12A1, 12A4, 12A5 trong môn Ngữ văn.
- Phương pháp thống kê toán học: 
 Lập bảng thống kê, phân tích, xử lí số liệu của đề tài, giúp đánh giá vấn đề chính xác, khoa học.
- Phương pháp phỏng vấn: 
 Phỏng vấn, trò chuyện với HS 3 lớp 12A1, 12A4, 12A5.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: 
 Theo dõi hoạt động học của HS nhằm tìm hiểu kỹ về mức độ hứng thú đối với bộ môn Ngữ văn, sự tích cực, chủ động trong học tập và các kỹ năng được biểu hiện của các em.
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm: 
 Xem xét những thành quả của hoạt động thực tiễn để rút ra những kinh nghiệm bổ ích trong dạy học.
- Phương pháp kiểm tra đánh giá: 
 Nhằm xác định mức độ hiểu biết về kiến thức, kỹ năng, khả năng vận dụng của HS để đánh giá về hiệu quả của các KTDH được áp dụng trong bài dạy.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Hứng thú và vai trò của hứng thú trong học tập
 Theo từ điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2002, định nghĩa “hứng thú là sự ham thích” (1).
 Luật Giáo dục năm 2005, điều 28.2 đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. (2)
 Rõ ràng khi có được sự say mê hứng thú trong bất kì công việc gì con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, thành công hơn. Hứng thú còn có tác dụng chống lại sự mệt mỏi, giảm căng thẳng. HS cũng vậy, khi có hứng thú các em sẽ kiên trì tìm hiểu nội dung bài học, làm bài tập; hăng hái trả lời câu hỏi của GV, nhận xét bổ sung câu trả lời của bạn, chủ động nêu câu hỏi, đưa ra những thắc mắc để các bạn cùng trả lời, thầy cô giải thích thấu đáo.
 Bất kì môn học nào cũng cần phải có hứng thú thì HS mới có thể tiếp cận bài học một cách tốt nhất. Đặc biệt với môn Ngữ văn, một môn học thiên nhiều về cảm xúc và tâm hồn, thì tạo sự hứng thú cho HS là một trong những điều đầu tiên GV cần làm.Vì vậy khi lên lớp, GV không phải chỉ truyền tải kiến thức mà quan trọng hơn chính là phải không ngừng tìm tòi đổi mới các phương pháp dạy học để tạo hứng thú cho các em (4). Có như vậy mới phát huy được tính tích cực chủ động, độc lập sáng tạo của HS đúng như định hướng giáo dục hiện nay.
Phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học tích cực (3)
Phương pháp dạy học
 Phương pháp dạy học (PPDH) là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa GV và HS trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học. Theo quan niệm hiện nay, PPDH là cách thức hướng dẫn và chỉ đạo của GV nhằm tổ chức họat động nhận thức và hoạt động thực hành của HS, dẫn tới việc lĩnh hội vững chắc nội dung bài học, hình thành thế giới quan và phát triển năng lực nhận thức của HS. Theo quan điểm này thì dạy học chính là quá trình tổ chức cho HS lĩnh hội tri thức. Để làm được điều đó thì người GV cần phải có những PPDH học tích cực. Việc dạy học theo những PPDH tích cực là vấn đề thật cần thiết và đáng quan tâm hiện nay. 
 PPDH tích cực được hiểu là PPDH phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Có nhiều PPDH tích cực nhưng PPDH thường được các GV sử dụng nhiều là phương pháp hoạt động nhóm (5).
 Kĩ thuật dạy học:
Kỹ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách thức hành động của GV trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Hay nói cách khác đó là cách thức hoạt động dạy học, tổ chức hoạt động giáo dưỡng để bảo đảm hiệu quả, chất lượng giảng dạy. 
Các KTDH là những đơn vị nhỏ nhất của PPDH. Trong mỗi PPDH có nhiều KTDH khác nhau. Có những KTDH chung, có những KTDH đặc thù của từng PPDH. 
 KTDH tích cực là những KTDH có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của HS. 
	Năng lực sử dụng các KTDH khác nhau trong từng GV và nó được xem là rất quan trọng đối với người đứng lớp, nhất là trong bối cảnh đổi mới PPDH học hiện nay ở nhà trường phổ thông. Rèn luyện để nâng cao năng lực này là một nhiệm vụ, một vấn đề thật cần thiết của mỗi GV, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học ở nhà trường. 
 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN:
 Trường THPT Triệu Sơn 6 được thành lập không lâu. Trường đóng trên địa bàn xã Dân Lực của huyện Triệu Sơn, rất gần với trường THPT Triệu Sơn 1 và trường THPT Triệu Sơn 4 là những trường có bề dày lịch sử lâu đời. Chính vì thế chất lượng đầu vào của HS trong trường là rất thấp, tỉ lệ HS yếu còn ở mức cao. Nhiều em HS rất lười học và đặc biệt là không có hứng thú với bộ môn Ngữ văn. Các em thường xuyên không chuẩn bị bài ở nhà, không làm bài tập đầy đủ; trên lớp các em lại không tập trung suy nghĩ, cho nên không nắm vững được nội dung bài học. Đa số HS chỉ có thể trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày), còn những câu hỏi tổng hợp yêu cầu phải tư duy thì còn rất XXXauk túng khi trả lời hoặc trả lời mang tính chất chung chung. 
 Qua các lần kiểm tra đối với lớp 12A1, 12A4 và 12A5, tôi có sử dụng một số PPDH thông thường, chủ yếu HS khá giỏi tham gia học tập, số HS yếu ít có cơ hội tham gia hoạt động. Chính vì thế nên việc học tập thường ít hứng thú, nội dung đơn điệu, GV ít quan tâm đến phát triển năng lực cá nhân.
 Đầu năm học 2017 – 2018, tôi tiến hành khảo sát tình hình học tập của HS lớp 12A1 (42HS), 12A4 (40 HS), 12A5 (43HS) và đã thu được kết quả như sau: 
Nội dung
Thường xuyên
Đôi khi
Không
12A1
12A4
12A5
12A1
12A4
12A5
12A1
12A4
12A5
Chú ý nghe giảng
16
14
17
25
24
22
11
12
14
Tham gia trả lời câu hỏi
12
15
13
4
3
5
26
22
25
Nhận xét ý kiến của bạn
6
7
4
2
3
3
31
20
36
Tự giác làm bài tập
16
14
13
16
17
15
10
9
15
 -> Kết quả kiểm tra trên cho thấy: mức độ chú ý nghe giảng còn hạn chế. HS tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét ý kiến của bạn còn ít, vẫn còn HS chưa tự giác làm bài tập. Đồng thời, ở nhiều HS hoạt động giao tiếp, kỹ năng sống rất hạn chế, chưa mạnh dạn nêu chính kiến của mình trong các giờ học, không dám tranh luận nhất là với GV, chưa có thói quen hợp tác trong học tập đã ảnh hưởng rất không tốt đến kết quả học tập của HS. Có nhiều nguyên nhân cho những hạn chế trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do PPDH, KTDH của GV chưa kích thích được sự hứng, sự tích cực chủ động học tập của HS.
 Kết quả hai kỳ khảo sát chất lượng đầu năm và giữa học kỳ 1 ở 3 lớp kết quả môn Ngữ văn đạt được như sau:
Khảo sát
Lớp
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
Đầu năm
12A1
0
0
01
2
07
17
20
49
14
32
12A4
0
0
02
5
12
30
23
58
03
7
12A5
0
0
03
7
11
25
24
56
05
12
Giữa
 kỳ 1
12A1
0
0
03
7
10
24
20
48
09
21
12A4
0
0
06
15
17
42
15
38
02
5
12A5
0
0
05
12
19
44
17
39
02
5
 Từ thực tế trên, tôi đã tìm đọc tài liệu, học hỏi đồng nghiệp, đầu tư thời gian, chuẩn bị các phương tiện, thiết bị dạy học để vận dụng vào thực tiễn giảng dạy bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường một số PPDH và KTDH tích cực nhằm mục đích phát triển tư duy, khơi gợi hứng thú, nâng cao hiệu quả học tập môn Ngữ văn cho HS. Rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của các bạn đồng nghiệp để vận dụng có hiệu quả hơn SKKN trong bài học này nói riêng, trong thể kí và trong cả chương trình Ngữ văn THPT nói chung.
CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ÁP DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 
 Thể kí nói chung và bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác phẩm hay trong chương trình Ngữ văn 12, nhưng thực tế dạy học tác phẩm này gặp không ít những khó khăn, vướng mắc. Từ trước đến nay, các em được học nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự nên việc đọc – hiểu, ghi nhớ của các em đã thành thói quen là hay dựa vào cốt truyện, tình tiết, sự việc, nhân vật Đến khi gặp một tác phẩm văn xuôi giàu chất trữ tình, các em sẽ khó cảm nhận và ghi nhớ nội dung tác phẩm. Chính vì thế hầu hết các em HS ở các khóa trước tôi từng dạy đều không thích học tác phẩm này hoặc chỉ học qua loa, đối phó. Trong năm học này, tôi đã sử dụng linh hoạt các PPDH, các KTDH tích cực vào từng phần của bài dạy này để nâng cao chất lượng học tập, khơi gợi hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động của HS. 
 Theo phân phối chương trình, bài học này được dạy trong 2 tiết. Các PPDH và KTDH nêu trong SKKN này có thể không sử dụng hết tất cả trong bài dạy của một lớp mà phải căn cứ vào đặc điểm HS của từng lớp dạy để áp dụng cho phù hợp, đạt hiệu quả tốt nhất mà không làm mất đi đặc trưng của một giờ học văn.
 Cụ thể như sau: 
Dùng kênh âm nhạc kết hợp hình ảnh để tạo tâm thế và lôi cuốn HS trong hoạt động giới thiệu bài mới.
 Giới thiệu bài mới là một hoạt động rất cần thiết mỗi khi bắt đầu một bài học mới. Thời gian dành cho phần này thường không nhiều (khoảng từ 1 đến 5 phút) nhưng lại không thể thiếu vì giới thiệu bài sẽ tạo tâm thế, sự hứng thú bước đầu cho HS khi tiếp cận bài học. Nó cũng giống như quảng cáo, nếu giới thiệu hay thì sẽ thu hút được sự chú ý, kích thích được trí tò mò của HS. 
 Với bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi đã lựa chọn sử dụng bài hát “Huế thương” của nhạc sĩ An Thuyên hoặc bài hát “Tiếng sông Hương” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Khi giai điệu ngọt ngào và ca từ của những bài hát này cất lên cùng những hình ảnh về xứ Huế thơ mộng, về sông Hương, về người con gái Huế với sắc áo tím mộng mơ xuất hiện sẽ thu hút được sự chú ý của HS về đối tượng mà nội dung bài học hướng tới. 
 (Ảnh minh họa)
 Đối với HS không phải ai cũng đã từng được một lần đến Huế, chưa từng được thấy sông Hương, khi nghe lời bài hát cùng những hình ảnh về Huế sẽ tạo được ấn tượng ban đầu, kích thích sự tò mò tìm hiểu về Huế về dòng sông Hương.
Sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm để hướng dẫn HS đọc – hiểu văn bản
 PPDH theo nhóm là một trong những PPDH phát huy tính tích cực của HS. Trong đó, HS của một lớp được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước lớp.
 Trong phần đọc – hiểu văn bản, để hướng dẫn HS tìm hiểu về hình tượng sông Hương, tôi lựa chọn kỹ thuật các mảnh ghép (ở tiết 1) và kỹ thuật khăn phủ bàn (ở tiết 2) trong PPDH theo nhóm.
 Sử dụng kỹ thuật các mảnh ghép hướng dẫn HS tìm hiểu về sông Hương ở góc độ tự nhiên (3)
Kỹ thuật các mảnh ghép là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm mục tiêu:
Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp.
Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh trong hoạt động nhóm.
Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (không chỉ nhận thức hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 1 mà còn phải truyền đạt kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2 với mức độ cao hơn).
Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm học tập của mỗi cá nhân.
Cách tiến hành 
	Kỹ thuật mảnh ghép được tiến hành qua 2 giai đoạn:
 - Giai đoạn 1. “Nhóm chuyên gia” : Lớp học được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao nhiệm vụ tìm hiểu sâu 1 phần nội dung học tập khác nhau nhưng có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Sau 1 thời gian nhất định thảo luận, mỗi thành viên trong nhóm đều nắm vững và trình bày được kết quả của nhóm cho các bạn ở nhóm khác.
 - Giai đoạn 2. “Nhóm mảnh ghép”: XXXauk hi hoàn thành nhiệm vụ ở giai đoạn 1, mỗi HS ở các “nhóm chuyên gia” khác nhau lại tập hợp lại thành nhóm mới là “nhóm mảnh ghép”. Và “nhóm mảnh ghép” nhận được một nhiệm vụ mới, nhiệm vụ này mang tính khái quát, tổng hợp toàn bộ nội dung đã được tìm hiểu từ các “nhóm chuyên gia” thành một “bức tranh” tổng thể.
Vận dụng cụ thể: Tìm hiểu về hình tượng sông Hương ở góc độ tự nhiên.
Mục tiêu:
Thấy được ở góc độ tự nhiên từ thượng nguồn đến biển, sông Hương là người con gái đẹp, thủy chung trong tình yêu.
Thấy được sự tài hoa, uyên bác, trí tưởng tượng, sự liên tưởng phong phú, độc đáo của HPNT về sông Hương, về xứ Huế.
Cảm nhận được tình yêu thiết tha, sâu nặng của HPNT đối với sông Hương, với xứ Huế.
Bước 1: Giao nhiệm vụ:
* Giai đoạn 1: “Nhóm chuyên gia”:
- GV: + Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm 10 HS, vị trí ngồi được đánh số từ 1,2,3 4 để hình thành “nhóm mảnh ghép” ở giai đoạn 2.
 + Trong nhóm cử 01 nhóm trưởng điều hành chung, 01 thư kí để ghi chép, 01 người liên lạc với giáo viên khi cần.
 + Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm:
Nhóm 1: Tìm hiểu vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn.
Nhóm 2: Tìm hiểu vẻ đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế.
Nhóm 3: Tìm hiểu vẻ đẹp của sông Hương ở trong XXXauk thành phố Huế.
Nhóm 4: Tìm hiểu vẻ đẹp của sông Hương khi từ biệt Huế ra biển.
- HS: + Ổn định vị trí nhóm được phân công
 + Nhận nhiệm vụ và hoàn thành trong thời gian 7 phút.
* Giai đoạn 2: “Nhóm mảnh ghép”:
- GV: + Yêu cầu HS mang số giống nhau ở các “nhóm chuyên gia” tập hợp lại thành nhóm mới là “nhóm mảnh ghép”.
 + Nhiệm vụ của các nhóm: Tìm hiểu vẻ đẹp của sông Hương ở góc độ tự nhiên từ thượng nguồn đến khi từ biệt Huế ra biển.
- HS: + Ổn định vị trí theo nhóm mới.
 + Nhận nhiệm vụ và hoàn thành trong thời gian 10 phút.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ:
- HS làm việc theo nhóm được phân công; ghi nội dung thảo luận vào giấy A0.
(ảnh minh họa)
Học sinh làm việc theo “nhóm mảnh ghép”
Học sinh làm việc theo “nhóm chuyên gia”
- GV quan sát, hỗ trợ
Bước 3: Báo cáo, thảo luận, trao đổi:
- GV yêu cầu đại diện nhóm lên trình bày trong 1-2 phút.
- HS: + Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận. 
 + Các nhóm khác theo dõi, nhận xét, bổ sung.
(ảnh minh họa)
HS “nhóm mảnh ghép” trình bày kết quả của nhóm
Bước 4: Chốt kiến thức của hoạt động.
GV nhận xét kết đánh giá kết quả hoạt động của 4 nhóm.
GV dùng máy chiếu để chốt kiến thức trọng tâm qua sơ đồ tư duy.
Nhận xét: 
 Qua áp dụng kỹ thuật các mảnh ghép trong hoạt động này tôi nhận thấy kỹ thuật này tạo ra hoạt động đa dạng, phong phú. HS được tham gia vào các nhiệm vụ khác nhau với các mức độ yêu cầu khác nhau. Kỹ thuật các mảnh ghép đòi hỏi HS phải tích cực, nỗ lực tham gia và bị cuốn hút vào các hoạt động để hoàn thành vai trò, trách nhiệm của mình. Nhờ đó đã hình thành ở HS tính chủ động, năng động, linh hoạt, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao trong học tập. Đồng thời cũng hình thành ở HS các kỹ năng sống như: KN nhận thức, KN giao tiếp, KN trình bày, KN hợp tác, KN giải quyết vấn đề, KN đảm nhận trách nhiệm 
Sử dụng kỹ thuật “khăn phủ bàn” để hướng dẫn HS tìm hiểu hình tượng sông Hương trong chiều sâu lịch sử văn hóa dân tộc (3)
 Đây là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm:
Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực.
Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh.
Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh.
Cách tiến hành:
Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0.
Trên giấy A0 chia thành các phần gồm phần chính giữa và các phần xung quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm. Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với phần xung quanh.
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu hỏi theo cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào phần giấy của mình trên tờ A0.
Trên cơ sở ý kiến của mỗi cá nhân học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 “khăn phủ bàn”.
Vận dụng cụ thể: Tìm hiểu về hình tượng sông Hương trong chiều sâu lịch sử - văn hóa dân tộc
Mục tiêu:
Thấy được trong chiều sâu lịch sử - văn hóa dân tộc, sông Hương là một người con gái:
+ Anh dũng kiên cường trong lịch sử.
+ Tài hoa, sáng tạo trong âm nhạc và văn hóa.
+ Lặng lẽ, kín đáo, khiêm nhường trong cuộc đời thường.
Đây cũng chính là những phẩm chất, những vẻ đẹp của con người xứ Huế.
Cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào của HPNT đối với sông Hương, với xứ Huế, với đất nước.
Thấy được ngòi bút mê đắm, tài hoa, uyên bác của HPNT.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
YÊU CẦU CẦN ĐẠT
Tiết 2:
Bước 1: Tạo tâm thế học tập 
- Gv giới thiệu tranh vẽ về sông Hương của em Trương Thị Quỳnh Anh – Lớp 12A4
Bước 2: Giao nhiệm vụ:
 Sử dụng kỹ thuật khăn phủ bàn.
- GV: 
 + Chia lớp thành 4 nhóm 
 + Cử nhóm trưởng, thư kí, người liên lạc với giáo viên khi cần
 + Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm:
Nhóm 1: Tìm hiểu vẻ đẹp của S.H trong chiều sâu l/s dân tộc.
Nhóm 2: Tìm hiểu vẻ đẹp của S.H trong cuộc đời thường.
Nhóm 3: Tìm hiểu vẻ đẹp của S.H trong chiều sâu văn hóa Huế. 
Nhóm 4: Tìm hiểu vẻ đẹp của S.H trong huyền thoại và t/y của người dân xứ Huế.
- HS nhận nhiệm vụ.
Bước 3: Thảo luận nhóm.
- HS ghi lại ý kiến riêng vào phần ghi ý kiến cá nhân của tờ giấy A0 (5 phút)
- Thảo luận nhóm và ghi ý kiến đã thống nhất vào giữa tờ giấy A0 (5 phút)
- GV quan sát, hỗ trợ.
Bước 4: Trình bày, nhận xét.
- Đại diện nh

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_nham_tang_hung_thu_nang_cao_hieu_qua_h.docx