SKKN Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp

SKKN Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống. Đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”.

Việc dạy trẻ kĩ năng sống là điều rất cần thiết, đặc biệt là đối với trẻ Tiểu học. Khi bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp xúc với xã hội và rất cần hoàn thiện, phát triển kĩ năng sống cho riêng mình. Chính những kĩ năng sống mà em tiếp nhận được trong những năm đầu tiên đi học sẽ theo các em suốt cả cuộc sống sau này. Nếu ngay từ bậc Tiểu học, các em đã có những kĩ năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn.

Hiên nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào dạy cho học sinh trong các nhà trường phổ thông dưới nhiều hình thức khác nhau và được coi như một nội dung để nâng cao chất lượng giáo dục.

Cuộc sống hiện đại đang đặt ra cho các nhà quản lí giáo dục, các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh học sinh nhiều khó khăn bởi một thực tế học sinh hiện nay còn yếu và thiếu kĩ năng sống. Từ những thực tế trên, mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức sang trang bị những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học. Tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động vào tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.

Nội dung giáo dục kĩ năng sống được tích hợp trong một số môn học và hoạt động giáo dục trong trường phổ thông. Đặc biệt rèn kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các nhà trường do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo.

 

doc 22 trang thuychi01 7803
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	1. MỞ ĐẦU
	1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống. Đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”.
Việc dạy trẻ kĩ năng sống là điều rất cần thiết, đặc biệt là đối với trẻ Tiểu học. Khi bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp xúc với xã hội và rất cần hoàn thiện, phát triển kĩ năng sống cho riêng mình. Chính những kĩ năng sống mà em tiếp nhận được trong những năm đầu tiên đi học sẽ theo các em suốt cả cuộc sống sau này. Nếu ngay từ bậc Tiểu học, các em đã có những kĩ năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn.
Hiên nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào dạy cho học sinh trong các nhà trường phổ thông dưới nhiều hình thức khác nhau và được coi như một nội dung để nâng cao chất lượng giáo dục.
Cuộc sống hiện đại đang đặt ra cho các nhà quản lí giáo dục, các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh học sinh nhiều khó khăn bởi một thực tế học sinh hiện nay còn yếu và thiếu kĩ năng sống. Từ những thực tế trên, mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức sang trang bị những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học. Tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động vào tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống được tích hợp trong một số môn học và hoạt động giáo dục trong trường phổ thông. Đặc biệt rèn kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các nhà trường do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo.
Vậy “Làm thế nào để trang bị cho các em có kĩ năng sống tốt hơn? Để các em chủ động, tự tin và vững vàng hơn trong học tập và cuộc sống?... Đó là điều mà tôi hết sức băn khoăn và trăn trở. Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi đã chọn đề tài: “Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp”. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân tôi mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ và thiết nghĩ đây cũng là một vấn đề mà phụ huynh và xã hội hết sức quan tâm.
	1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
 	Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật
 Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. 
	1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
	- Việc giảng dạy các môn học và tổ chức hoạt động GDNGLL của các giáo viên chủ nhiệm khối lớp 3.
 	- Kỹ năng sống của các em học sinh lớp 3C trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - TP Thanh Hóa
	1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
	1.4.1. Nghiên cứu lí luận
 Tìm đọc tài liệu có liên quan đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
	1.4.2. Nghiên cứu thực tế
 a. Phương pháp điều tra: Khảo sát thực tế học sinh qua hai đợt (đầu năm và giữa học kì 2)
 b. Phương pháp quan sát:
 + Quan sát hoạt động học tập (Xem các em có tích cực tham gia vào các hoạt động hay không? Có kĩ năng làm bài hay không?...)
 + Quan sát hoạt động vui chơi (Thích trò chơi nào, thái độ trung thực hay chưa trung thực khi tham gia trò chơi).
 + Quan sát hoạt động giao tiếp với mọi người xung quanh (Thái độ khi nói chuyện với bạn bè, cách xưng hô với thầy cô giáo, với người lớn tuổi, hành vi tốt xấu với mọi người).
 c. Phương pháp thực hành: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động để học sinh tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kĩ năng; thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường, làm tốt công tác xã hội hóa trong việc giáo dục kĩ năng sống.
 d. Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục:
 + Phân tích các nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng sống.
 + Tổng hợp các biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm khối lớp 3; của nhà trường và gia đình.
	2. NỘI DUNG
	2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Ngày nay kĩ năng sống (KNS) hay còn gọi là những kĩ năng mềm đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. KNS chiếm 70% các kĩ năng dẫn đến thành công của mỗi người. Vậy KNS là gì?
	 Theo tổ chức Y tế thế giới WHO định nghĩa KNS là “khả năng thích nghi” và “hành vi tích cực” cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF): KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng vầ tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng.
Theo Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. KNS bao gồm một loạt các kĩ nang cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất của KNS là kĩ năng tự quản bản thân và kĩ nang xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc có hiệu quả.
Tóm lại, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với người khác và với xã hội; khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Thật vậy, các KNS thường không tách rời mà có mối liên quan chặt chẽ với nhau. KNS không phải tự nhiên có được mà phải được hình thành trong quá trình học tập, lính hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành KNS diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục.
Trong thực tế, công việc giáo dục KNS đôi khi là điều trăn trở đối với nhiều người song cũng với không ít người thì khái niệm này đang hoàn toàn xa lạ. Tại sao như vậy? Cùng với câu hỏi đó thì thực tế vẫn đang có rất nhiều người công tác trong nghành giáo dục đã bỏ thời gian và công sức nghiên cứu về giáo dục KNS như: Con đường hình thành KNS; cách thức hình thành KNS và vai trò của KNS trong cuộc sống con người.
Kĩ năng sống được hình thành như thế nào?
Kĩ năng sống có thể hình thành từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học KNS một con người mới có những KNS đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm , va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được những bài học qu‎ giá về KNS. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn.
Tại sao cần có kĩ năng sống?
KNS cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn cần được bổ sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng cần học KNS.
Sự cần thiết phải giáo dục kĩ năng sống cho học sinh?
Nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ. Do vậy KNS là sản phẩm bắt buộc có của giáo dục nhà trường. Nó không phải là môn học. Nó bao trùm toàn bộ các môn học và hoạt động giáo dục.
 2.2. CƠ SỎ THỰC TIỄN.
 Thực hiện nghị quyết 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc phát động phong trào thi đua: "Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực" trong đó nội dung: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ nhiệm vụ năm học 2017 - 2018 của ngành, của trường về việc chú trọng: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
	Giáo dục KNS cho học sinh nhằm trang bị cho các em những kiến thức và kĩ năng về cuộc sống để các em có thể thích ứng với cuộc sống, để có thể tự mình xử lí mọi tình huống trong thực tế một cách tốt nhất. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình, xã hội.
 Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát triển mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm, mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ; Một số phụ huynh quá lo lắng cho hành vi mà con trẻ thể hiện không được như bố mẹ mong muốn, thấy con mình có lớn mà không có khôn, chưa linh hoạt trong việc xử lí các tình huống trong cuộc sống hàng ngày, còn vụng về khi làm một số công việc đơn giản trong gia đình.
	Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kĩ năng làm việc nhà, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Nhiều em không tự dọn dẹp phòng ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì ngoài việc học, còn rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh Tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, Khoa học và Nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, trăn trở.
	2.3. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
 Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 3, trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế.
 Qua tiến hành khảo sát ở lớp 3C đầu năm học 2017 - 2018 với chủ đề 
“ Kĩ năng của em” kết quả như sau:
Tiêu chí
Số HS
Kĩ năng
Thảo luận nhóm
Ứng xử khi tham gia HĐTT
SL
%
SL
%
SL
%
Kĩ năng tốt
42
10
24.0%
Có kĩ năng
42
17
40.0%
Kĩ năng chưa tốt
42
15
36.0%
Tích cực, biết hợp tác
42
15
36.0%
Chưa tích cực hợp tác
42
27
64.0%
Ứng xử thân thiện
42
24
57.0%
Chưa biết cách ứng xử
42
18
43.0%
Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Từ những thực trạng trên thôi thúc tôi tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả.
	2.3.1. Tình hình nhà trường.
Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi là ngôi trường đã được đầu tư khang trang, đã đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1 nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ. Đội ngũ cán bộ giáo viên trong trường đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Tỷ lệ giáo viên trên chuẩn chiếm hơn 80%. Nhà trường luôn được đánh giá là một tập thể đoàn kết, vững mạnh. Trong những năm gần đây nhà trường luôn đạt danh hiệu đơn vị dẫn đầu khối Tiểu học, được phụ huynh và cấp trên tin tưởng về chất lượng dạy và học. Ban giám hiệu nhà trường trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục; luôn quan tâm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, qua việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoại khóa nhằm khuyến khích học sinh được thể hiện bản thân như: tổ chức các câu lạc bộ (tin học, tiếng Anh, cờ vua, cầu lông, âm nhạc, ...), tổ chức cho học sinh giao lưu, giúp đỡ các bạn vùng cao, ....
2.3.2. Đối với giáo viên.
Đội ngũ giáo viên của nhà trường luôn tâm huyết với nghề, đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Đa số giáo viên có nhiều kinh nghiệm đã tích cực tìm hiểu, vận dụng những hiểu biết của bản thân vào việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tuy nhiên việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. 
2.3.3. Đối với phụ huynh.
Các bậc phụ huynh luôn phối hợp với giáo viên trong việc giáo dục học sinh, tạo mọi điều kiệngiúp đỡ giáo viên trong việc giáo dục con em. Tuy nhiên vẫn có một bộ phận phụ huynh còn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chưa đẹp, hoặc chưa biết làm Toán thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một số bố mẹ quá nuông chiều con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết 
2.3.4. Đối với học sinh.
Các em học sinh đều sống ở Thành phố nên việc tiếp thu những kiến thức mới cũng như hình thành các kĩ năng sống cũng tương đối thuận lợi. Tuy nhiên một số em vừa từ lớp một, hai lên làm quen với môi trường lớp 3 nên khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói chưa rõ ràng, diễn đạt chưa rõ ‎ý, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô giáo, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ...
Chính vì thế tôi luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.
 Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn nêu trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm thông qua các tiết dạy của một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục. 
 2.4. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
 Kĩ năng sống được hình thành qua quá trình giáo dục ở gia đình, nhà trường và xã hội. Kĩ năng sống được giáo dục trong các môn học chính khóa và ngoại khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Cụ thể cần phải áp dụng một số biện pháp sau:
 	2.4.1. Rèn kĩ năng sống cho HS thông qua việc tạo sự gần gũi và thân thiện với các em.
Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu, tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo.
 2.4.2. Rèn kĩ năng sống cho HS thông qua việc tích hợp vào các môn học.
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em. 
 Ví dụ: Trong môn Tự nhiên và Xã hội. Ở bài: "Các thế hệ trong một gia đình”, tôi cho học sinh mang theo tranh ảnh giới thiệu với các bạn trong nhóm về các thế hệ trong gia đình mình. Sau khi học sinh làm việc trong nhóm sẽ lên giới thiệu trước lớp. Qua đó, các em sẽ mạnh dạn hơn trong giao tiếp. 
Giới thiệu với các bạn về các thế hệ trong gia đình mình (TN&XH)
 Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
	 Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm phải luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau.
Ở môn Tự nhiên và Xã hội Chương “Con người và sức khỏe”các bài: “Phòng bệnh đường hô hấp; Bệnh lao phổi; Vệ sinh cơ quan tuần hoàn (bài tiết nước tiểu, thần kinh);...” giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, hô hấp, tim mạch, thần kinh,  Biết những việc nên làm và không nên làm để phòng bệnh, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. 
Trong chương trình lớp 3, môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Kể chuyện qua tranh,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, tóm tắt tin tức,hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_lop_3_qua_cac_mon_hoc_va.doc