Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng anh Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng anh Lớp 3

Lý do thực hiện sáng kiến

Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì đồ dùng trực quan có một vai trò vô cùng quan trọng giúp học sinh có khả năng tư duy cao độ, tập trung quan sát tìm hiểu và nghiên cứu thông qua kênh hình, xây dựng lên kiến thức bài học.

 Người thầy đóng vai trò làm người hướng dẫn, thiết kế những hoạt động học tập giúp học sinh tự thu thập được thông tin và xử lý thông tin, tự phát hiện ra chủ điểm và nội dung kiến thức chính của bài học mới. Tổ chức cho học sinh khai thác triệt để kiến thức, xây dựng kiến thức tình huống thông qua kênh hình. Đồ dùng trực quan sẵn có để thu thập thông tin mới qua quan sát hình vẽ, vật thật, mô hình sẵn có quanh ta để rút ra kết luận hoặc khắc ghi cấu trúc, ngữ nghĩa sâu và lâu hơn. Học sinh tích cực tham gia và tìm hiểu nghiên cứu kiến thức, không còn tình trạng học sinh ngồi thụ động tiếp thu những kiến thức bài học do giáo viên trình bày trong sách giáo khoa mà chủ động tham gia vào quá trình tìm hiểu, tiếp nhận kiến thức và phát hiện ra nội dung, kiến thức bài học mới.

Xuất phát từ vấn đề này, tôi cho rằng việc sử dụng đồ dung trực quan là vô cùng cần thiết nhằm tạo sự tập trung, theo dõi của học sinh vào các vấn đề được trình bày, tạo sự hứng thú và khơi dậy trí tò mò muốn khám phá những vấn đề mới. Từ đó giáo viên sẽ có cơ hội truyền tải và học sinh sẽ lĩnh hôi kiến thức mới một cách tích cực và hiệu quả.

 

doc 13 trang hoathepmc36 26/02/2022 4442
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng anh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN 
BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG 
GIẢNG DẠY TIẾNG ANH LỚP 3
 PHẦN MỞ ĐẦU
 I. Bối cảnh thực hiện sáng kiến
 Ngày nay xã hội đang ngày càng phát triển, việc học tập, tiếp thu, lĩnh hội tri thức nhân loại đang là nhu cầu cấp thiết của từng người. Để mỗi người dễ dàng tiếp cận với nguồn tri thức dồi dào đó, Tiếng Anh là phương tiện không thể thiếu. Do đó, việc học tiếng Anh đang ngày càng được xã hội quan tâm hơn, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bởi vì tiếng Anh là ngôn ngữ chung nhất được sử dụng và được giao lưu. Mỗi môn học có những phương pháp giảng dạy, đặc thù riêng. Đối với việc giảng dạy môn Ngoại ngữ nói chung và với môn Tiếng Anh nói riêng thì phương pháp giảng dạy và phương tiện hỗ trợ trong giảng dạy phải là những vấn đề cần được đặt lên hàng đầu. Để có một tiết học Tiếng Anh có chất lượng tốt, tạo cho học trò một sự hứng khởi khi tiếp thu bài học thì giáo viên phải áp dụng những phương pháp độc đáo, hấp dẫn. Ngoài ra đồ dùng trực quan là công cụ quan trọng và không thể thiếu trong mỗi tiết dạy Tiếng anh để hỗ trợ giáo viên truyền đạt những kiến thức mới, nhằm giúp học sinh dễ dàng hiểu và tiếp thu những kiến thức mà giáo viên truyền đạt. Do đó việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn như băng, đĩa, máy chiếu, tranh ảnh, những vật thật, mô hình  không thể thiếu cho sự truyền tải thông tin và giảng dạy kiến thức mới cho học sinh.
Trong quá trình học ngoại ngữ, việc sử dụng đồ dùng trực quan rất quan trọng vì nó là phương tiện dùng để diễn đạt ý tưởng đồng thời đó cũng là cầu nối giữa các kĩ năng nghe, nói, đọc và viết. Tuy nhiên, việc sử dụng đồ dùng trực quan lại không đơn giản chút nào, nhất là dạy cho trẻ đang ở ngưỡng bắt đầu học ngoại ngữ. Dạy tiếng Anh nói chung và dạy từ vựng nói riêng cho trẻ đòi hỏi ở người giáo viên không chỉ có khả năng ngôn ngữ mà còn là cách làm thế nào để khiến học sinh tham gia vào bài học. Để làm được điều đó, giáo viên buộc phải tạo ra sự đa dạng trong các hoạt động trong giờ học. Đó là lí do tại sao giáo viên cần lựa chọn và phối hợp các phương pháp và kỹ thuật dạy từ một cách linh hoạt và uyển chuyển để duy trì khả năng tập trung vốn kém ở học sinh tiểu học. Làm thế nào có thể tạo ra cho trẻ một không khí học tập vui vẻ và thư giãn mà hiệu quả là điều mà tôi băn khoăn, trăn trở.
II. Lý do thực hiện sáng kiến
Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì đồ dùng trực quan có một vai trò vô cùng quan trọng giúp học sinh có khả năng tư duy cao độ, tập trung quan sát tìm hiểu và nghiên cứu thông qua kênh hình, xây dựng lên kiến thức bài học.
	 Người thầy đóng vai trò làm người hướng dẫn, thiết kế những hoạt động học tập giúp học sinh tự thu thập được thông tin và xử lý thông tin, tự phát hiện ra chủ điểm và nội dung kiến thức chính của bài học mới. Tổ chức cho học sinh khai thác triệt để kiến thức, xây dựng kiến thức tình huống thông qua kênh hình. Đồ dùng trực quan sẵn có để thu thập thông tin mới qua quan sát hình vẽ, vật thật, mô hình sẵn có quanh ta để rút ra kết luận hoặc khắc ghi cấu trúc, ngữ nghĩa sâu và lâu hơn. 	Học sinh tích cực tham gia và tìm hiểu nghiên cứu kiến thức, không còn tình trạng học sinh ngồi thụ động tiếp thu những kiến thức bài học do giáo viên trình bày trong sách giáo khoa mà chủ động tham gia vào quá trình tìm hiểu, tiếp nhận kiến thức và phát hiện ra nội dung, kiến thức bài học mới.
Xuất phát từ vấn đề này, tôi cho rằng việc sử dụng đồ dung trực quan là vô cùng cần thiết nhằm tạo sự tập trung, theo dõi của học sinh vào các vấn đề được trình bày, tạo sự hứng thú và khơi dậy trí tò mò muốn khám phá những vấn đề mới. Từ đó giáo viên sẽ có cơ hội truyền tải và học sinh sẽ lĩnh hôi kiến thức mới một cách tích cực và hiệu quả. Từ thực tế việc sử dụng đồ dung trực quan trong giảng dạy và đã được được nhiều kết quả tốt. Tôi xin mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: "Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy tiếng anh lớp 3”
	III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
	Phạm vi: Nghiên cứu nội dung – chương trình môn Tiếng Anh lớp 3
	Đối tượng: Học sinh lớp 3 trường Tiểu học Thị trấn Việt Lâm
	IV. Mục đích nghiên cứu
- Tìm ra phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan tốt nhất để giúp học sinh trong quá trình học đạt kết quả cao.
- Tìm ra được một số biện pháp mới trong việc sử dụng đồ dùng trực quan để phát huy tính tích cực của học sinh.
- Tìm hiểu sự hứng thú trong quá trình sử dụng đồ dùng trực quan vào học tập và giảng dạy Tiếng Anh lớp 3 trường Tiểu học Thị trấn Việt Lâm
PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu
1. Thuận lợi:
- Có sự quan tâm của ngành cấp trên, Ban giám hiệu, Phụ huynh và giáo viên.
- Học sinh đang dần có cái nhìn tích cực hơn với môn học này và đa số các em rất ham thích học.
- Biên chế giáo viên đảm bảo theo nhu cầu phát triển của mỗi nhà trường; đồng thời giáo viên được đào tạo theo chuẩn, có sự nhiệt tình, năng lực và có tích luỹ được kinh nghiệm.
2. Khó khăn
- Còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho bộ môn: phòng lab, sách tham khảo 
- Còn một số ít học sinh gặp khó khăn trong việc tiếp cận và nắm bắt ngôn ngữ mới. Từ đó, có ảnh hưởng không ít đến chất lượng dạy-học.
- Hầu hết học sinh ở vùng nông thôn, phát âm tiếng địa phương nên khi đọc tiếng Anh không chuẩn, thường có xu hướng phát âm tiếng Anh theo cách Việt hoá.
3. Các biện pháp tiến hành khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy
3.1. Chuẩn bị:	
	- Muốn sử dụng tốt đồ dùng trực quan trong giảng dạy Anh Văn trước hết giáo viên phải biết được các loại đồ dùng trực quan và tác dụng của nó trong việc tìm hiểu và khai thác kiến thức ở từng bài học.
	- Đồ dùng trực quan trong giảng dạy bao gồm: vật thật, mô hình, tranh vẽ 
	+ Vật thật là những đồ vật cần thiết có ở xung quanh ta và rất gần gũi với đời sống hàng ngày hoặc dụng cụ học tập như thước kẻ, bút chì, sách vở, bàn ghế,
	+ Đồ dùng hình tượng là những hình vẽ, băng, đĩa.
	+ Vật thay thế là các mô hình bằng nhựa hoặc đất sét.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên phải nghiên cứu nội dung bài học trước để chuẩn bị đồ dùng cho phù hợp với nội dung tiết dạy và đồ dùng đó phải 
được sử dụng một cách triệt để, tiết dạy đó sẽ hiệu quả hơn. Có như vậy đồ dùng trực quan mới có giá trị để học sinh khai thác và tìm hiểu kiến thức tốt hơn trên cơ sở quan sát trao đổi nhóm để khắc sâu kiến thức.
*Ví dụ: Những hình ảnh miêu tả các danh từ:
	@Cho người: 
 a boy a girl a child a baby	
@Cho vật:
 a cat a dog a pig a chicken
 a fish a crocodile a goat
 a bicycle a car a hospital a teapot
 an apple bananas a carrot an onion
 pawpaw melon strawberry beans
@Cho đến các tính từ như:
tall short fat thin strong weak 
 Happy sad laghing crying heavy
 @Một số hình ảnh miêu tả hoạt động:
walk run sit lie swim 
- Dùng đồ dùng trực quan phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn Anh Văn góp phần làm học sinh dễ hiểu và tiếp nhận kiến thức dễ hơn, tạo sự thoải mái cho học sinh làm cho các em không còn ngại học ngoại ngữ nói chung và Anh Văn nói riêng. Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy thì người dạy đóng vai trò là chỉ đạo, học sinh làm chủ trong quan sát và chủ động tìm hiểu nghiên cứu chủ điểm cũng như kiến thức của bài học mới, tạo được hứng thú và kích thích tính tò mò, hiếu động, ham tìm hiểu ở học sinh. Sau khi quan sát đồ dùng trực quan, người dạy là người hướng dẫn gợi ý để học sinh xây dựng và hướng tới nội dung chính, kiến thức trọng tâm của bài.
	Chính vì lẽ đó, đối với giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học là một vấn đề quan trọng không thể thiếu được, nó quyết định đến việc thành công cho tiết dạy và cả quá trình dạy học, giáo viên cần có kế hoạch nghiên cứu chương trình để chuẩn bị đồ dùng.
3.2. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
- Đây là phương pháp giáo viên tổ chức để cho học sinh quan sát đồ dùng trực quan, tìm hiểu kiến thức thông qua đồ dùng để xây dựng tình huống, đoán ngữ nghĩa của từ, dự đoán các hiện tượng, sự việc, thu thập thông tin dữ liệu để hướng học sinh vào chủ điểm bài học hoặc làm bài tập để xử lý thông tin. 
- Để phát huy việc sử dụng đồ dùng trực quan tốt nhất cần kết hợp và linh hoạt sử dụng một số phương pháp cơ bản sau đây:
* Phương pháp làm mẫu (Model, Action, Talk - Mat) nhấn mạnh vào việc hành động và làm mẫu theo các cấu trúc và mẫu câu rồi luyện kỹ, giúp cho học sinh hình thành kỹ năng sử dụng tiếng Anh một cách tối đa trong một lượng thời gian tối thiểu. Phương pháp này tương đối phù hợp với hoàn cảnh dạy tiếng Anh ở Việt Nam vì có những ưu điểm sau:
+ Tiết kiệm được thời gian, học sinh hiểu ngay được nội dung, ngữ liệu qua động tác của giáo viên.
+ Học sinh hiểu được mình phải làm gì khi luyện tập.
+ Giúp giáo viên dùng toàn tiếng Anh để giảng giải một cấu trúc, một hoạt động mà không cần viện đến tiếng mẹ đẻ.
* Phương pháp phản ứng thể chất toàn bộ (Total Physical Response – TPR) còn gọi là phương pháp nghe hiểu (The Comprehension Approach -CA) nhằm giúp học sinh phản ứng toàn diện bằng động tác dựa trên sự liên kết giữa ngôn ngữ và hành động tự nhiên, cách làm này giúp học sinh liên tưởng và nhớ lâu hơn.
+ Đặc điểm của phương pháp TPR:
- Giúp học sinh phát triển khả năng hiểu ngôn ngữ trước khi nói ngôn ngữ ấy.
- Khả năng hiểu ngôn ngữ thông qua động tác cơ thể.
- Không ép buộc học sinh nói nếu các em chưa sẵn sàng.
+ Kỹ thuật chủ đạo của phương pháp TPR:
- Dùng mệnh lệnh chỉ đạo hành vi của học sinh trên lớp;
- Thay đổi vai giao tiếp: Cho học sinh đổi vai, làm theo mệnh lệnh và tập ra lệnh.
- Sử dụng chuỗi hành động (các mệnh lệnh có liên quan tới nhau).
* Phương pháp chức năng (Functional Approach - FA) nhấn mạnh khả năng sử dụng ngôn ngữ bằng những mẫu câu trong ngữ cảnh, tình huống cụ thể và phù hợp.
* Phương pháp giao tiếp (Communicative Approach - CM) coi ngôn ngữ sử dụng trong lớp học phải mang tính thông báo để trao đổi ý tưởng và tình cảm giữa giáo viên - học sinh và học sinh với học sinh.
* Phương pháp nghe - nói (Audio - lingual Approach - ALA) nhấn mạnh vào khả năng phát âm và cú pháp của ngôn ngữ.
* Phương pháp ngữ pháp - cấu trúc (Grammatical Structural Approach) nhấn mạnh vào sự tiếp thu một hệ thống ngữ pháp.
Bên cạnh việc sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên cũng cần nhấn mạnh vào kỹ năng giao tiếp, lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích các em giao tiếp theo nhóm, theo cặp và cả lớp, xây dựng môi trường thân thiện hợp tác.
Do vậy giáo viên cần:
- Tăng cường sử dụng tiếng Anh trên lớp học để tiến tới việc có thể sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ chính trong việc học tiếng Anh (các lời chào, thăm hỏi, mệnh lệnh) nói với các em càng nhiều tiếng Anh càng tốt để tạo cho các em hình thành thói quen nghe và hiểu.
- Khuyến khích học sinh sử dụng tiếng Anh thường xuyên hơn (chào, hỏi, xin phép ).
- Khuyến khích học sinh chuyển đổi ra tiếng Anh những điều các em nói bằng tiếng Việt;
- Quan tâm hơn nữa tới việc sử dụng tiếng Anh như một phương tiện giao tiếp thực sự hướng tới độ chuẩn xác về ngữ âm và ngữ điệu.
- Trả lời câu hỏi của học sinh bằng Tiếng Anh.
- Giúp học sinh khắc phục mặc cảm tự ti, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói, lời nói bằng cách động viên, chỉ dẫn, sửa lỗi nhẹ nhàng chứ không ngắt lời khi học sinh đang nói, không phê phán khi các em làm sai.
- Chỉ sử dụng tiếng Việt để hỗ trợ cho việc giải thích một số từ khó, khái niệm trừu tượng hoặc các hiện tượng ngữ pháp mới.
- Chuẩn bị các hoạt động đa dạng sao cho phù hợp với các đối tượng khác nhau.
- Chuẩn bị nhiều tình huống giao tiếp liên quan đến từng hành động lời nới.
Để tránh tình trạng “dịch” từng từ một hay từng câu nói một, khi dạy ngữ liệu mới, đồ dùng dạy học, nghe - nhìn cần được sử dụng trong việc thiết lập tình huống giao tiếp hay giới thiệu ngữ nghĩa của ngữ liệu mới. Giáo viên có thể sử dụng hình ảnh, đồ vật thật, điệu bộ, giọng nói hay hành động để giúp học sinh liên hệ giữa âm thanh, giọng nói của băng đĩa hay của chính giáo viên. Bằng cách này giáo viên có thể gây hứng thú và hướng sự chú ý của các em vào học tập, đồng thời có sự liên tưởng và ghi nhớ trong ký ức những gì được nghe thấy.
Riêng đối với một số ngữ liệu có tính trừu tượng, không thể dùng đồ dùng học tập dạy học, nghe, nhìn giáo viên có thể dùng Tiếng Việt đơn giản, ngắn gọn để nói nghĩa tương đương. Tuy nhiên không nên lạm dụng Tiếng Việt giảng dạy ngoại ngữ mà nên giải thích nghĩa Tiếng Anh thông qua câu, từ đơn giản.
4. Ưu điểm, hạn chế của các giải pháp mới
* Ưu điểm:
* Với học sinh :
- Tập trung vào nội dung bài học, hăng hái, sôi nổi hơn. 
- Tham gia tích cực vào hoạt động giao tiếp.
- Học sinh học từ mới bằng hình ảnh hiệu quả hơn so với phương pháp truyền thống (giáo viên ghi từ mới và nghĩa của từ lên bảng, học sinh chép vào vở). ngữ liệu tối thiểu, đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng.
- Những em học yếu không còn ngại và sợ học môn Anh văn nữa. Các em đã bạo dạn hơn và có ý thức học tập để xây dựng lớp học phong phú, sôi nổi.
* Với giáo viên:
- Sử dụng thời gian trong tiết dạy hợp lý hơn.
III. Khả năng ứng dụng triển khai
- Với phương pháp này, qua quá trình dạy thử nghiệm ở một số lớp tôi nhận thấy có thể áp dụng đối với tất cả các khối lớp, phù hợp với các đôi tượng học sinh.
 *Hạn chế: 
- Các đồ dùng trực quan hầu hết do giáo viên tự sưu tầm hoặc tự tạo, hệ thống flash cards của bộ môn chưa được trang bị nên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc chọn lựa và sử dụng đồ dùng.
III. Khả năng áp dụng của sáng kiến
	* Sáng kiến đã được nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy môn Tiếng Anh lớp 3 trường Tiểu học Thị trấn Việt Lâm.
	* Để áp dụng sáng kiến vào giảng dạy cần chú ý:
	- Đối với giáo viên: 
+ Việc chọn tranh ảnh, đồ dùng, vật thật cần chú ý đến tính điển hình, phản ánh trung thực và có khả năng làm rõ nội dung bài dạy.
+ Các loại tranh ảnh cần đảm bảo tính thẩm mỹ
+ Thường xuyên học tập, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong việc sử dụng đồ dùng. 
- Đối với học sinh:
+ Tập trung chú ý vào nội dung bài đẻ khắc sâu kiến thức.
IV. Hiệu quả của sáng kiến 
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã áp dụng vào thực tế giảng dạy tại lớp học 3A2 với tổng số 28 học sinh. Qua thời gian thực nghiệm suốt học kỳ I đã có kết quả rõ rệt. Kết quả khảo sát đến thời điểm tháng 11/2019 đạt được cụ thể như sau:
Thời điểm khảo sát
Điểm
 9 - 10
Tỉ lệ
Điểm
 7 - 8
Tỉ lệ
Điểm 5 - 6
Tỉ lệ
Điểm dưới 5
Tỉ lệ
Tháng 
9/2019
4
14,3 %
12
42,9
8
28,5
4
14,3
Tháng 11/2019
7
25,0
15
57,1
6
17,9
0
0
- Như vậy có thể thấy, kết quả học tập của học sinh có sự chuyển biến tích cực. Số học sinh đạt diểm khs giỏi tăng dần so với thời điểm chủa áp dụng phương pháp. học sinh được học tập có sử dụng đồ dùng trực quan giúp học sinh hiểu bài, nhớ từ vựng. Trong giờ học, học sinh hứng thú, sôi nổi tham gia vào các hoạt động giáo viên tổ chức. Giờ học không còn áp lực với học sinh, nhiều em không còn ngại học môn Tiếng Anh. 
PHẦN KẾT LUẬN
I. Bài học kinh nghiệm
Qua việc áp dụng sáng kiến tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau:
- Giới thiệu từ mới thông qua vật thật hoặc tranh ảnh.
- Dạy cách phát âm thông qua việc nghe băng kết hợp với việc mô phỏng âm thanh bằng thao tác, hành động của người dạy.
- Đồ dùng trực quan phải đa dạng, sinh động, gần gũi với các em.
- Khi sử dụng đồ dùng trực quan, giáo viên nên chú ý tới chủ điểm, tới đối tượng học sinh để đề ra yêu cầu phù hợp. Hướng dẫn cho học sinh hiểu rõ nội dung yêu cầu. Song phải mang tính logic, mặt khác giáo viên phải tôn trọng sự độc lập, sáng tạo của học sinh.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
- Với học sinh: 
+ Qua việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động, sáng tạo, phù hợp với từng bài tôi thấy lớp học sôi nổi hơn, sự gần gũi giữa thầy và trò được cải thiện rõ rệt. 
 + Những em học yếu không còn ngại và sợ học môn Tiếng Anh nữa. Các em đã bạo dạn hơn và có ý thức học tập để xây dựng lớp học phong phú, sôi nổi.
- Với người dạy:
+ Sử dụng thời gian trong tiết dạy hợp lý hơn.
+ Các kết quả thu lượm được từ việc quan sát lắng nghe giáo viên sẽ nắm
 được các điểm yếu, điểm mạnh của học sinh.
III. Khả năng ứng dụng triển khai:
- Áp dụng chuyên đề vào các tiết giảng dạy Tiếng Anh có đủ đồ dùng trực quan và sử dụng triệt để đồ dùng trực quan sẽ khai thác kiến thức sâu hơn, thực tế hơn, học sinh sẽ tích cực và yêu thích môn học hơn. Giáo viên Tiếng Anh sẽ đạt được những nguyện vọng, niềm tin mà bản thân yêu cầu đối với học sinh của mình. 
 - Học sinh có thể rèn luyện khả năng quan sát và tư duy thông qua việc quan sát những vật thật trong lớp học, môi trường xung quanh các em. Nếu được tận dụng hiệu quả những vật thật sẳn có như trên giáo viên có thể tiết kiệm được việc đầu tư tranh ảnh không cần thiết góp phần tiết kiệm kinh phí cho nhà trường cũng như của giáo viên. Phát huy tính tích cực của học sinh, giúp các em yêu thích môn Tiếng anh hơn. Các em sẽ có cơ hội nghiên cứu, tìm tòi và vận dụng kiến thức tốt hơn trong học tập. Bản thân tôi sẽ áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong suốt quá trình giảng dạy của mình.
IV. Đề xuất ý kiến
- Với bộ môn Tiếng Anh ở Tiểu học cần cung cấp thêm nhiều đồ dùng trực quan sinh động hơn nữa.
- Đảm bảo đủ sách giáo khoa, sách bài tập cho các em học sinh.(vì kênh hình trong SGK rất đa dạng, phong phú ).
- Cần tổ chức những buổi ngoại khóa với những vật thật như những mô hình bằng nhựa hoặc bằng đất sét 
Trên đây là một số đề xuất để triển khai, ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm
 được hiệu quả hơn. Khi trình bày sáng kiến đề này, tôi muốn phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức. Đồng thời tôi cũng rất mong sự góp ý của Phòng Giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường, Tổ chuyên môn để tôi đạt hiệu quả tốt hơn trong công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn!
TT Việt Lâm, ngày 19 tháng 11 năm 2019 
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
HIỆU TRƯỞNG
Bùi Thị Khuyên
NGƯỜI VIẾT
Linh Thị Thành Long

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_su_dung_do_dung_truc_quan_tr.doc