SKKN Phát triển một số yếu tố của tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 5 thông qua dạy học toán ở trường Tiểu học Nga Thạch, huyện Nga Sơn

SKKN Phát triển một số yếu tố của tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 5 thông qua dạy học toán ở trường Tiểu học Nga Thạch, huyện Nga Sơn

Giáo dục thế hệ trẻ có nhân cách sáng tạo là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục, trong đó trọng tâm là bậc học Tiểu học. Điều này được thể hiện rõ trong mục đích giáo dục của nhà trường. Đó là việc tổ chức các hoạt động học tập nhằm hướng đến việc hình thành và phát triển ở học sinh các phẩm chất của một nhân cách sáng tạo. Hiện nay, ngành giáo dục đã có những nghiên cứu về tư duy và tư duy sáng tạo nhưng chúng ta chỉ mới quan tâm đến việc rèn luyện, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh gắn với các môn học cụ thể. Ở cấp Tiểu học, các nghiên cứu về chủ đề này thường chỉ tập trung vào việc thiết kế bài tập hoặc chỉ gắn với một chủ đề, một phạm vi kiến thức hẹp trong một môn học.

Khi dạy học, người giáo viên không chỉ đơn thuần truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn phải biết rèn luyện kỹ năng, nâng cao tầm hiểu biết, phát huy tính sáng tạo linh hoạt cho học sinh thông qua những giờ luyện tập, thực hành thí nghiệm.

Môn Toán có vị trí rất quan trọng trong việc rèn luyện và phát triển tính mềm dẻo của tư duy sáng tạo cho học sinh, giúp học sinh phương pháp suy nghĩ, suy luận, phương pháp tự học và phát triển trí thông minh, khả năng suy nghĩ linh hoạt, sáng tạo.

Việc giải bài tập toán được xem là một hình thức vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế, vào những trường hợp cụ thể. Bài tập môn toán không những giúp học sinh củng cố, đào sâu, hệ thống hoá kiến thức, rèn luyện kỹ năng mà còn là hình thức rất tốt để dẫn dắt học sinh tự mình đi tìm kiến thức mới. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả trên, người giáo viên phải biết tổ chức một cách khéo léo, hợp lí để giúp học sinh nắm kiến thức theo hệ thống từ thấp đến cao, từ dễ đến khó qua việc sửdụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực. Việc phát triển hoạt động sáng tạo nói chung, tư duy sáng tạo nói riêng trong chương trình học tập của học sinh là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Nó không chỉ đổi mới tư duy, phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh mà còn góp phần hình thành và phát triển nhân cách của học sinh thông qua quá trình dạy học và phương pháp dạy học.

 

doc 20 trang thuychi01 18224
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phát triển một số yếu tố của tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 5 thông qua dạy học toán ở trường Tiểu học Nga Thạch, huyện Nga Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục thế hệ trẻ có nhân cách sáng tạo là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục, trong đó trọng tâm là bậc học Tiểu học. Điều này được thể hiện rõ trong mục đích giáo dục của nhà trường. Đó là việc tổ chức các hoạt động học tập nhằm hướng đến việc hình thành và phát triển ở học sinh các phẩm chất của một nhân cách sáng tạo. Hiện nay, ngành giáo dục đã có những nghiên cứu về tư duy và tư duy sáng tạo nhưng chúng ta chỉ mới quan tâm đến việc rèn luyện, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh gắn với các môn học cụ thể. Ở cấp Tiểu học, các nghiên cứu về chủ đề này thường chỉ tập trung vào việc thiết kế bài tập hoặc chỉ gắn với một chủ đề, một phạm vi kiến thức hẹp trong một môn học.
Khi dạy học, người giáo viên không chỉ đơn thuần truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn phải biết rèn luyện kỹ năng, nâng cao tầm hiểu biết, phát huy tính sáng tạo linh hoạt cho học sinh thông qua những giờ luyện tập, thực hành thí nghiệm. 
Môn Toán có vị trí rất quan trọng trong việc rèn luyện và phát triển tính mềm dẻo của tư duy sáng tạo cho học sinh, giúp học sinh phương pháp suy nghĩ, suy luận, phương pháp tự học và phát triển trí thông minh, khả năng suy nghĩ linh hoạt, sáng tạo.
Việc giải bài tập toán được xem là một hình thức vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế, vào những trường hợp cụ thể. Bài tập môn toán không những giúp học sinh củng cố, đào sâu, hệ thống hoá kiến thức, rèn luyện kỹ năng mà còn là hình thức rất tốt để dẫn dắt học sinh tự mình đi tìm kiến thức mới. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả trên, người giáo viên phải biết tổ chức một cách khéo léo, hợp lí để giúp học sinh nắm kiến thức theo hệ thống từ thấp đến cao, từ dễ đến khó qua việc sửdụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực. Việc phát triển hoạt động sáng tạo nói chung, tư duy sáng tạo nói riêng trong chương trình học tập của học sinh là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Nó không chỉ đổi mới tư duy, phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh mà còn góp phần hình thành và phát triển nhân cách của học sinh thông qua quá trình dạy học và phương pháp dạy học. 
 Việc phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh tiểu học nhìn chung còn hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chưa có biện pháp phù hợp được xem là nguyên nhân chính. 
Trong sáng kiến này, tôi tập trung vào một vấn đề chưa được quan tâm nhiều “Phát triển một số yếu tố của tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 5 thông qua dạy học toán ở trường Tiểu học Nga Thạch, huyện Nga Sơn” với quan niệm rằng: các yếu tố như tính linh hoạt, mềm dẻo, tính thuần thục, tính nhạy cảm, tính phê phán, tính độc đáo, tính chi tiết,... có thể phát triển ngay từ cấp Tiểu học thông qua day học toán. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
 - Xác định cơ sở lý luận của việc phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh tiểu học.
 - Đánh giá thực trạng dạy học phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh ở trường tiểu học hiện nay.
 - Đề xuất biện pháp phát triển một số yếu tố phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh trong dạy học Tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 - Quá trình dạy học Tiểu học.
 - Biện pháp phát triển một số yếu tố của tư duy sáng tạo cho học sinh trong dạy học Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 - Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các nguồn tư liệu (sách, tài liệu, các công trình nghiên cứu, bài báo khoa học,) để xây dựng cơ sở lý luận cho sáng kiến kinh nghiệm.
 - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
 + Điều tra giáo dục: điều tra, khảo sát thực tế hoạt động dạy học của giáo viên bằng cách sử dụng phiếu hỏi, phỏng vấn và dự giờ nhằm đánh giá thực trạng việc dạy học phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh ở trường tiểu học Nga Thạch hiện nay.
	+ Quan sát sư phạm: quan sát các hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học.
 + Tổng kết kinh nghiệm giáo dục: tổng kết những kinh nghiệm của giáo viên.
 + Phương pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu điều tra khảo sát và thực nghiệm sư phạm.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2. 1. Cơ sở lí luận.
 2.1.1. Khái niệm tư duy.
Tư duy là một hiện tượng tâm lý, là hoạt động nhận thức bậc cao ở con người. Cơ sở sinh lý của tư duy là sự hoạt động của vỏ đại não. Hoạt động tư duy đồng nghĩa với hoạt động trí tuệ. Mục tiêu của tư duy là tìm ra các triết lý, lý luận, phương pháp luận, phương pháp, giải pháp trong các tình huống hoạt động của con người. 
2.1.2. Đặc điểm của tư duy
Tư duy mà con người là chủ thể chỉ nảy sinh khi gặp tình huống “có vấn đề”. Tuy nhiên, vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ cá nhân (cái gì đã biết, cái gì còn cần tìm kiếm), đồng thời nằm trong ngưỡng hiểu biết của cá nhân và là nhu cầu động cơ tìm kiếm của cá nhân. Tiếp theo, tư duy luôn phản ánh cái bản chất nhất chung cho nhiều sự vật hợp thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Ngoài ra, tư duy luôn phản ánh gián tiếp hiện thực. Trong tư duy, có sự thoát khỏi những kinh nghiệm cảm tính. Cuối cùng, ngôn ngữ có vai trò cố định lại các kết quả của tư duy và nhờ đó làm khách quan hóa chúng cho người khác và cho cả bản thân chủ thể tư duy. 
2.1.3. Khái niệm tư duy sáng tạo
 Tư duy sáng tạo là tư duy có khuynh hướng phát hiện và giải thích bản chất 
sự vật theo lối mới, hoặc tạo ra ý tưởng mới, cách giải quyết mới không theo 
tiền lệ đã có. 
2.1.4 Đặc trưng của tư duy sáng tạo
 	 Tính mềm dẻo.
 Tính mềm dẻo là khả năng dễ dàng chuyển từ hoạt động trí tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác. Đó là năng lực chuyển dịch dễ dàng, nhanh chóng trật tự của hệ thống tri thức, xây dựng phương pháp tư duy mới, tạo ra sự vật mới trong mối liên hệ mới,...dễ dàng thay đổi các thái độ đã cố hữu trong hoạt động trí tuệ của con người. 
 Tính thuần thục
Tính thuần thục (lưu loát, nhuần nhuyễn) thể hiện khả năng làm chủ tư duy, làm chủ kiến thức, kĩ năng và thể hiện tính đa dạng của các cách xử lý khi giải quyết vấn đề. Đó chính là năng lực tạo ra một cách nhanh chóng sự tổ hợp giữa các yếu tố riêng lẻ của tình huống, hoàn cảnh, đưa ra giả thuyết về ý tưởng mới. Nó được đặc trưng bởi khả năng tạo ra một số lượng nhất định các ý tưởng.
 Tính độc đáo
 Tính độc đáo là khả năng tìm kiếm và quyết định phương thức lạ và 
duy nhất. Tính độc đáo được đặc trưng bởi các khả năng sau:
 - Khả năng tìm ra những liên tưởng và kết hợp mới.
 - Khả năng tìm ra các mối liên hệ trong những sự kiện bên ngoài tưởng như không có quan hệ với nhau;
 - Khả năng tìm ra những giải pháp lạ tuy đã biết những giải pháp khác.
2.1.5: Tư duy sáng tạo của học sinh tiểu học.
Học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh cuối cấp đã có đầy đủ các điều kiện cần thiết cho hoạt động nhận thức nói chung, hoạt động sáng tạo nói riêng. Tuy nhiên, các khả năng này mới ở mức độ ban đầu, sơ đẳng nên hoạt động sáng tạo của các em cũng chỉ dừng ở mức tạo ra những cái mới đối với bản thân, kể cả tri thức, kinh nghiệm tích luỹ được cũng như cách thức, con đường chiếm lĩnh những tri thức, kinh nghiệm ấy. Cùng với sự phát triển các khả năng nhận thức khác, tư duy sáng tạo của học sinh các lớp cuối cấp tiểu học tuy ở mức đầu sơ giản nhưng cũng đã mang những nét đặc trưng cơ bản nhất của tư duy sáng tạo như tính mềm dẻo, linh hoạt, độc đáo và thể hiện ở các mức độ khác nhau giữa các nhóm đối tượng học sinh. Trong dạy học, việc phân biệt mức độ không phải là vấn đề quan trọng, mà quan trọng hơn, người giáo viên phải nhận diện được những yếu tố đặc trưng của tư duy sáng tạo thể hiện ở mỗi cá nhân học sinh để có tác động phù hợp làm cho nó phát triển hơn.
2.2. Thực trạng dạy học phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Thạch.
 * Thực trạng việc dạy học của giáo viên.
Là tổ trưởng chuyên môn, tôi thường xuyên nghiên cứu và tìm hiểu kế hoạch bài học của giáo viên nhà trường, tôi thấy rằng kế hoạch bài học của tất cả các đồng chí trong tổ có rất ít nội dung dạy học phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Điều đó chứng tỏ việc phát triển tư duy cho học sinh vẫn chưa trở thành một yêu cầu bắt buộc trong việc dạy học của giáo viên. Trong giáo án của giáo viên chủ yếu là các hoạt động để giải quyết các nội dung kiến thức trong bài học, không có phần thiết kế cho các hoạt động tư duy hay lồng ghép các hoạt động tư duy vào trong kế hoạch giảng dạy ở mỗi bài học cụ thể. Thực tế cho thấy, kế hoạch của giáo viên chủ yếu sử dụng mẫu thiết kế bài giảng trong các sách tham khảo. Trong các cuốn thiết kế bài giảng, cũng hoàn toàn không có các hướng dẫn cho việc phát triển tư duy và tư duy sáng tạo cho học sinh. Như vậy, có thể khẳng định kế hoạch dạy học của giáo viên nhà trường mới chỉ thể hiện việc giải quyết kiến thức, mà chưa hướng đến phát triển tư duy, tư duy sáng tạo cho học sinh. Từ đó cho thấy phương pháp dạy học cũng còn thiếu sáng tạo.
* Thực trạng học của học sinh.
Học sinh chưa chủ động tham gia các hoạt động học tập, chưa mềm dẻo, linh hoạt trong giải quyết các vấn đề học tập. Học sinh chưa tập trung vào nhiệm vụ học tập ngay từ đầu tiết học. Các em chưa biết tận dụng kiến thức cũ để khai thác, tìm tòi kiến thức mới. Kĩ năng thảo luận, chia sẻ cũng chưa tốt.... Đây là kết quả - hệ quả của cách dạy mà giáo viên thực hiện trong tiết học.
Qua quá trình phân tích, theo dõi mức độ tư duy sáng tạo của 22 học sinh lớp 5B trường Tiểu học Nga Thạch, huyện Nga Sơn, tôi thu thập được kết quả như sau:
- Học sinh tò mò và hay thắc mắc: 5 em
- Tìm ra cách giải quyết vấn đề hay và độc đáo: 3 em
- Tìm ra nhiều cách giải quyết cho cùng một vấn đề học tập: 3 em
- Tìm ra câu trả lời nhanh, chính xác và sắc sảo cho câu hỏi hoặc yêu cầu của giáo viên: 2 em
- Biết cách suy luận, phát hiện, giải quyết vấn đề, biết cách học và tự học: 2 em
- Đưa ra những lý do sắc sảo, hợp lý cho những câu trả lời: 1 em
- Đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau cho một vấn đề và sử dụng những từ ngữ cụ thể, chính xác để diễn đạt: 1 em
Suy nghĩ về quá trình tư duy của mình (diễn đạt lại quá trình tìm lời giải cho vấn đề): 3 em
- Đưa ra những câu hỏi phức tạp về chủ đề đang giải quyết: 2 em
Từ bảng thống kê cho thấy, số lượng học sinh có biểu hiện của tư duy sáng tạo là rất ít. Hầu hết các em học bài theo sự hướng dẫn của thầy cô. Qua nghiên cứu, tôi thấy rõ các nguyên nhận sau:
Thứ nhất, trong giờ dạy, đa số giáo viên chưa tập trung học sinh vào nhiệm vụ học tập. Nhiều em còn phân tán, còn làm việc riêng hoặc chưa thực hiện theo tiến trình bài học, dẫn đến các em chưa hiểu bài hoặc chưa hiểu hết nội dung bài.
 Thứ hai, hệ thống câu hỏi khai thác tư duy cho học sinh chưa hợp lý. Giáo viên chưa dành thời gian thỏa đáng để học sinh suy nghĩ về vấn đề cần giải quyết. Nhiều giáo viên còn không dám để học sinh tự do tranh luận vì sợ làm mất thời gian, không hoàn thành bài. Nhiều khi học sinh chưa kịp nói hết ý đã bị giáo viên thúc giục, thậm chí bác bỏ làm cho học sinh không được tự tin, nhiều em còn thấy e sợ, lúng túng.. 
 Thứ ba, giáo viên chưa thực sự tạo điều kiện cho học sinh được hoạt động, trao đổi, thảo luận. Những câu trả lời hoặc cách giải khác của học sinh nhiều khi còn không được chấp nhận chỉ vì cách giải đó khác với cách giải của giáo viên. 
 Thứ tư, giáo viên chưa tạo ra sự thi đua, thử thách, kích thích động cơ sáng tạo của học sinh, chưa chú ý rèn việc sử dụng linh hoạt các thao tác tư duy cơ bản, chưa chú ý rèn luyện các biểu hiện của tính linh hoạt, mềm dẻo, thuần thục trong giải quyết vấn đề, tính độc đáo, hoàn thiện, chi tiết trong sản phẩm bài làm của học sinh. 
 Thứ năm, trong các giờ dạy, giáo viên đã hoàn toàn bỏ rơi đối tượng học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành trong việc phát triển các yếu tố của tư duy sáng tạo thông qua các hoạt động học tập của học sinh.
 Sau 3 năm tìm tòi và nghiên cứu, tôi xin đề xuất một số giải pháp phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh như sau:
Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề. 
 Biện pháp 1: Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh bằng cách tập trung 
 các em vào nhiệm vụ học tập.
Như một tiền lệ bất biến, rất nhiều giáo viên khi vào lớp thường bắt đầu tiết học bằng cách kiểm tra bài cũ, nhận xét kết quả học tập ở nhà của học sinh rồi giới thiệu vào tiết học mới. Điều này gây áp lực cho học sinh ngay từ đầu tiết học. Chúng ta biết rằng, khi vào lớp, để bắt đầu một bài học, học sinh tiểu học thường bị phân tán bởi những hoạt động vừa diễn ra trước đó như một trò chơi hấp dẫn còn dở dang, phân tán bởi cái áo mới mẹ mua cho, phân tán bởi bộ phim hoạt hình hấp dẫn các em vừa xem hôm trước,... Do đó, các em sẽ khó tập trung, thậm chí là không tập trung trong thời gian đầu của bài học. Nếu giáo viên không có những biện pháp thu hút học sinh tập trung vào bài học ngay từ đầu tiết thì có em cả tiết học mất tập trung cho dù bài học rất hấp dẫn. Vì vậy, việc nhấn mạnh hay tập trung tư tưởng của học sinh vào nhiệm vụ học tập ngay từ những phút đầu tiên của tiết học là việc làm rất quan trọng nhằm lôi cuốn các em vào các hoạt động tư duy trong cả tiết học.
 Ngoài ra, trong mỗi giờ học, giáo viên cần nhắc nhở để học sinh tập trung vào chủ đề của bài học. Hoặc ít nhất những việc học sinh đang thực hiện là phù hợp với nhiệm vụ học tập đã được xác định của tiết học. Nếu học sinh có dấu hiệu đi lạc hướng chủ đề, người thầy cần nhanh chóng đưa các em quay trở lại chủ đề học tập chính thông qua những công việc cụ thể đã được xác định trong kế hoạch dạy học của giáo viên. 
 Đây là biện pháp có tác dụng định hướng quá trình tư duy của học sinh và nhằm mục đích để cuốn hút học sinh vào các nhiệm vụ học tập. Làm thế nào để giáo viên có thể tập trung học sinh của mình vào nhiệm vụ học tập. Mỗi giáo viên sẽ có các cách giải quyết khác nhau. Song, thông thường giáo viên có thể làm như sau:
 - Nêu rõ mục tiêu của bài học trước khi bắt đầu tiến hành các hoạt động của bài học.
Ví dụ:
 Khi dạy bài: Nhân một số thập phân với 10, 100, 1000 (trang 57-Toán 5), sau khi giới thiệu bài học mới giáo viên có thể giới thiệu mục tiêu của bài học như sau: “Qua tiết học hôm nay, các con cần biết cách nhân nhẩm một số thập phân với 10; 100; 1000và giải được một số bài toán có liên quan” trước khi tiến hành các hoạt động của bài học.
 Việc làm này sẽ giúp học sinh định hình được các em cần đạt được những gì sau bài học, từ đó chúng sẽ có tâm thế cho các hoạt động “tư duy” tiếp theo.
 - Nêu rõ những câu hỏi thảo luận và ghi một số câu hỏi chính lên bảng phụ để học sinh có thể quan sát được. Đồng thời những câu hỏi trọng tâm của bài phải là các câu hỏi điển hình, rõ ràng và dễ hiểu.
 Ví dụ: Hướng dẫn học sinh nhân nhẩm 27,867 x 10, giáo viên đưa ra các câu hỏi thảo luận sau:
 + Em có nhận xét gì về các chữ số ở thừa số thứ nhất và tích?
 + Nêu nhận xét về vị trí của dấu phẩy trong thừa số thứ nhất và tích.
 + Nêu cách nhân 27,867 x 10.
 + Muốn nhân một số thập phân với 10 ta làm thế nào?
 Điều này có nghĩa là câu hỏi trọng tâm của bài học sẽ được giáo viên ghi lên bảng phụ hoặc phiếu học tập để học sinh quan sát trong suốt quá trình thảo luận bài.
 - Tiến hành một hay nhiều hoạt động đánh giá quá trình học tập của học sinh.
 Việc làm này sẽ giúp giáo viên kiểm soát được học sinh có đang tập trung vào bài học hay không, có hiểu và hiểu đúng nội dung trọng tâm của bài học hay không. Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi hay sử dụng bài tập ứng dụng, vận dụng kiến thức vừa học cho việc đánh giá quá trình tham gia của học sinh.
 Lưu ý: Trong dạy học phát triển tư duy cho học sinh, chúng ta không thể đặt kế hoạch cho mọi tình huống bất ngờ trong lớp học. Vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải có sự linh hoạt, sáng tạo trong mọi tình huống dạy học để giải quyết vấn đề một cách khéo léo và tế nhị nhất.
 Tùy vào từng tiết học mà việc kiểm tra kiến thức cũ có thể lồng ghép trong tiết dạy giúp học sinh không bị căng thẳng ngay từ đầu tiết học.
 Ví dụ: Bài: Nhân một số thập phân với 10, 100, 1000 giáo viên có thể không kiểm tra bài cũ đầu tiết mà kiểm tra kiến thức nhân số thập phân với số có 2 chữ số bằng cách cho học sinh nhân 27,867 x 10 theo cột dọc vào thời điểm đưa ví dụ 1 trong bài dạy.
 Kết luận: Bằng những cách thực hiện như trên, tôi thấy học sinh của mình chuẩn bị tâm thế sẵn sàng, chủ động để tập trung vào nhiệm vụ học tập một cách rất tự nhiên mà không bị áp lực. Đồng thời, các em cũng tránh được việc thảo luận những vấn đề không liên quan và không bị chệch hướng khi tiến hành các hoạt động tiếp theo của bài học.
Biện pháp 2: Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh bằng cách sử dụng những câu hỏi mở và câu hỏi mở rộng trong tiết học.
	Trong quá trình dạy học, giáo viên thường sử dụng các câu hỏi đóng để học sinh tìm được câu trả lời một cách nhanh nhất. Đây là loại câu hỏi cho đáp án “ có” hoặc “không”; loại câu hỏi chỉ có một câu trả lời; loại câu hỏi thiếu thông tin sâu và sự khác biệt. Chẳng hạn các câu hỏi “ Để giải bài toán này em sử dụng phép tính gì? Em lấy gì nhân với gì? Thầy (cô) nghĩ em nên tính diện tích hình chữ nhật trước. Em có đồng ý không?...Loại câu hỏi này cũng bao hàm một gợi ý. Học sinh không có quyền tự do lựa chọn để đưa ra câu trả lời của mình. Nếu sử dụng loại câu hỏi này thường xuyên, giáo viên sẽ làm cho học sinh lười suy nghĩ, thiếu sáng tạo. Từ đó làm chậm quá trình tư duy của học sinh.
 Trong dạy học phát triển tư duy cho học sinh, những câu hỏi của giáo viên có ý nghĩa hết sức quan trọng. Học sinh có hứng thú, tò mò hay không? Có động não hay không? Có tìm được câu trả lời hay không? Có cảm giác chiến thắng khi tìm thấy kết quả hay không? Tất cả những điều này phụ thuộc vào chính những câu hỏi của giáo viên. Có những câu hỏi tạo ra sự tích cực, kích thích tư duy và cũng có những câu hỏi không gây nên phản ứng gì. Một câu hỏi tư duy tốt có thể duy trì sự tư duy của học sinh hàng giờ. Khi đã có câu hỏi tốt, cần sử dụng câu hỏi vào những thời điểm thích hợp. Nhiều khi chỉ một sơ suất nhỏ trong việc sử dụng câu hỏi không đúng lúc, đúng chỗ sẽ làm hỏng quá trình tư duy của học sinh.
Câu hỏi có thể kích thích được tư duy của học sinh nhiều nhất là câu hỏi “mở” và câu hỏi “mở rộng”. Đó là những câu hỏi có nhiều hơn một câu trả lời, đồng thời không trả lời bằng “có” hoặc “không”. Những câu hỏi “mở rộng” nhằm khai thác những thông tin sâu hơn, rộng hơn dựa trên câu trả lời trước đó. Có ba loại câu hỏi “mở rộng” chính, đó là:
- Những câu hỏi “làm sáng tỏ”, nhằm làm rõ, giải thích hay chi tiết, cụ thể hóa những ý tưởng trong câu trả lời trước. Câu hỏi làm sáng tỏ cung cấp cho giáo viên và học sinh nhiều thông tin giá trị. 
- Câu hỏi “hỗ trợ” là loại câu hỏi nhằm thăm dò suy nghĩ của học sinh.
- Câu hỏi “xây dựng”, cũng tương tự như câu hỏi hỗ trợ, tuy nhiên nó xa và sâu hơn chỗ học sinh được hỏi để chỉnh trang lại câu trả lời ban đầu. Những loại câu hỏi này có tác dụng kích thích học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề, kích thích tính sáng tạo của học sinh. 
Sử dụng những câu hỏi “mở” và câu hỏi “mở rộng” được xem là một trong những biện pháp quan trọng để phát triển tư duy của học sinh.
Chẳng hạn:
 Sau khi học sinh đã giải bài toán, khi hướng dẫn học sinh chữa bài, giáo viên sử dụng các câu hỏi “mở” nhằm giúp học sinh phân tích bài toán là: 
 + Bài toán cho biết gì? 
 + Bài toán yêu cầu tìm gì? 
 + Điều kiện của bài toán đó là gì? 
 + Hãy diễn tả bài toán bằng kí hiệu toán học, bằng sơ đồ, bằng hình vẽ?...
 Trong khi hướng dẫn học sinh tìm phương hướng giải cho một bài toán, các câu hỏi “mở” có thể là: 
 + Có thể dựa vào bài toán nào để giải quyết bài toán này? 
 + Có thể phát biểu bài toán dưới dạng khác được hay không? 
 + Em hãy giải bài toán theo cách giải bài toán gần giống. 
 + Đã sử dụng hết những yếu tố đã cho trong bài toán hay chưa?...
 Trong khi yêu cầu học sinh thực hiện giải bài toán, các câu hỏi có thể đặt là: 
 + Thử lại lập luận trong các bước giải? 
 + Có thể giải bài toán bằng cách nào khác? 
 + Kiểm tra sự phù hợp của lời giải và phép tính? 
 + Hãy đặt một bài toán hay tình huống mới bằng cách tương tự
 Đối với việc sử dụng câu hỏi “mở” và “mở rộng”, đôi khi giáo viên sẽ gặp phải những tình huống không mong muốn. Học sinh có thể cho giáo viên một cái nhìn “trống không” với câu trả 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phat_trien_mot_so_yeu_to_cua_tu_duy_sang_tao_cho_hoc_si.doc