SKKN Nâng cao hiệu quả giờ học bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy bài “Ôn tập truyện” Tiết 153 - Ngữ văn 9 ở trường THCS Tào Xuyên

SKKN Nâng cao hiệu quả giờ học bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy bài “Ôn tập truyện” Tiết 153 - Ngữ văn 9 ở trường THCS Tào Xuyên

Trong chương trình giáo dục ở nhà trường phổ thông hiện nay, môn Ngữ văn là môn học có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển tâm lí, tình cảm cho học sinh, hình thành ở các em tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu quê hương đất nước. Đồng thời môn học còn rèn giũa cho các em khả năng nói, viết, nhất là giúp các em có những quan điểm thẩm mỹ đúng đắn, chuẩn mực, hoàn mỹ. Để đạt được mục đích đó, đòi hỏi người giáo viên dạy Ngữ văn phải luôn tìm tòi những phương pháp dạy học tốt nhất nhằm thu hút các em trong các tiết học, tạo sự hứng thú, say mê, yêu thích môn học ở mỗi học sinh. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy và tự học tập phấn đấu, tôi thấy phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong các tiết học Ngữ văn đã tạo được hứng thú, say mê cho các em, giúp các em yêu thích môn học văn hơn. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em hệ thống hóa kiến thức chọn lọc những phần quan trọng trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.

Vì những lí do trên, tôi xin đưa ra một kinh nghiệm nhỏ để nâng cao chất lượng giờ học Ngữ văn là: Nâng cao hiệu quả giờ học bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy bài “Ôn tập truyện” Tiết 153 - Ngữ văn 9 ở trường THCS Tào Xuyên.

Nằm trong cấu trúc chung của chương trình Ngữ Văn THCS, chương trình Ngữ văn lớp 9 có một vị trí đặc biệt. Chương trình học vừa giúp hình thành từng bước về trình độ học vấn phổ thông tạo tiền đề cho người học có nền tảng học tiếp ở bậc cao hơn. Bởi vậy ngoài các tiết học cung cấp kiến thức mới cho học sinh thì còn có các tiết ôn tập, tổng kết. Riêng với phân môn Văn, có 12 tiết ôn tập, tổng kết. Trong đó Ôn tập phần văn (Học kì I): 2 tiết, Ôn tập về thơ: 1 tiết, Ôn tập về truyện: 2 tiết; Tổng kết văn bản nhật dụng: 2 tiết; Tổng kết văn học nước ngoài: 2 tiết; Tổng kết văn học: 3 tiết. Qua đó cho ta thấy các tiết ôn tập, tổng kết có vai trò vô cùng quan trọng. Vì đây là các bài ôn tập, tổng kết cho một mảng, hoặc một bộ phận văn học trong chương trình . cho nên các tiết học này vừa nhằm giúp học sinh nắm vững hơn những kiến thức đã học đồng thời vận dụng những kiến thức đó vào giải quyết một số bài tập mà sách giáo khoa đề ra. Tuy nhiên, khối lượng kiến thức cho một tiết ôn tập, tổng kết không hề nhỏ song phân bố thời lượng cho tương xứng với các phạm vi kiến thức còn ít cho nên gặp rất nhiều khó khăn cho việc dạy và học của giáo viên cũng như học sinh.

 

doc 23 trang thuychi01 8821
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả giờ học bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy bài “Ôn tập truyện” Tiết 153 - Ngữ văn 9 ở trường THCS Tào Xuyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ HỌC BẰNG PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀO GIẢNG DẠY BÀI “ÔN TẬP TRUYỆN” TIẾT 153 - NGỮ VĂN 9 Ở TRƯỜNG THCS TÀO XUYÊN
 Người thực hiện: Trịnh Thị Ngoan
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường TH & THCS Tào Xuyên
 SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2018
Mục
Nội dung
Trang
1.
MỞ ĐẦU
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu 
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
2. 
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
2.2.1
Vài nét về tình hình chung và tình hình giáo dục của nhà trường
4
2.2.2
Thực trạng của chương trình Ngữ Văn THCS.
4
2.2.3
Thực trạng đối với giáo viên.
4
2.2.4 
Thực trạng đối với học sinh
5
2.3 
Các giải pháp thực hiện đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
6
2.3.1 
Giải pháp 1: Tổng hợp, lựa chọn kiến thức trọng tâm cần ôn tập
7
2.3.2
Giải pháp 2: Xây dựng BĐTD trên phần mềm BuzansMindMap.
8
2.3.3
Giải pháp 3: Dự kiến phương pháp và kĩ thuật tổ chức dạy học và định hướng hệ thống câu hỏi:
8
2.3.4 
Áp dụng vào thiết kế bài dạy.
10
2. 4 
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
16
3
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
17
3.1
Kết luận 
18
3.2 
Đề xuất
19
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
TT
Chữ cái viết tắt
Nội dung
1
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
2
THCS
Trung học cơ sở
3
 HS
Học sinh
4
GV
Giáo viên
5
BĐTD
Bản đồ tư duy
6
SGK
Sách giáo khoa
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Trong chương trình giáo dục ở nhà trường phổ thông hiện nay, môn Ngữ văn là môn học có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển tâm lí, tình cảm cho học sinh, hình thành ở các em tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu quê hương đất nước... Đồng thời môn học còn rèn giũa cho các em khả năng nói, viết, nhất là giúp các em có những quan điểm thẩm mỹ đúng đắn, chuẩn mực, hoàn mỹ. Để đạt được mục đích đó, đòi hỏi người giáo viên dạy Ngữ văn phải luôn tìm tòi những phương pháp dạy học tốt nhất nhằm thu hút các em trong các tiết học, tạo sự hứng thú, say mê, yêu thích môn học ở mỗi học sinh. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy và tự học tập phấn đấu, tôi thấy phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong các tiết học Ngữ văn đã tạo được hứng thú, say mê cho các em, giúp các em yêu thích môn học văn hơn. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em hệ thống hóa kiến thức chọn lọc những phần quan trọng trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Vì những lí do trên, tôi xin đưa ra một kinh nghiệm nhỏ để nâng cao chất lượng giờ học Ngữ văn là: Nâng cao hiệu quả giờ học bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy bài “Ôn tập truyện” Tiết 153 - Ngữ văn 9 ở trường THCS Tào Xuyên.
Nằm trong cấu trúc chung của chương trình Ngữ Văn THCS, chương trình Ngữ văn lớp 9 có một vị trí đặc biệt. Chương trình học vừa giúp hình thành từng bước về trình độ học vấn phổ thông tạo tiền đề cho người học có nền tảng học tiếp ở bậc cao hơn. Bởi vậy ngoài các tiết học cung cấp kiến thức mới cho học sinh thì còn có các tiết ôn tập, tổng kết. Riêng với phân môn Văn, có 12 tiết ôn tập, tổng kết. Trong đó Ôn tập phần văn (Học kì I): 2 tiết, Ôn tập về thơ: 1 tiết, Ôn tập về truyện: 2 tiết; Tổng kết văn bản nhật dụng: 2 tiết; Tổng kết văn học nước ngoài: 2 tiết; Tổng kết văn học: 3 tiết. Qua đó cho ta thấy các tiết ôn tập, tổng kết có vai trò vô cùng quan trọng. Vì đây là các bài ôn tập, tổng kết cho một mảng, hoặc một bộ phận văn học trong chương trình. cho nên các tiết học này vừa nhằm giúp học sinh nắm vững hơn những kiến thức đã học đồng thời vận dụng những kiến thức đó vào giải quyết một số bài tập mà sách giáo khoa đề ra. Tuy nhiên, khối lượng kiến thức cho một tiết ôn tập, tổng kết không hề nhỏ song phân bố thời lượng cho tương xứng với các phạm vi kiến thức còn ít cho nên gặp rất nhiều khó khăn cho việc dạy và học của giáo viên cũng như học sinh.
Thực tế khi giảng dạy bài ôn tập, qua việc dự giờ của một số giáo viên, tôi nhận thấy dạy bài ôn tập còn mang tính truyền thống, giáo viên đàm thoại và thuyết giảng là chủ yếu. Khi dạy, vì phạm vi kiến thức khá rộng nên giáo viên đang còn tập trung nhiều vào việc nhắc cho học sinh nhớ kiến thức đã học là được, chứ chưa thật sự chú trọng đến việc phát huy tính tích cực của học sinh, chưa kể đến việc trình bày hệ thống những kiến thức nằm rải rác ở các bài học trước, dẫn đến giờ học còn khô khan, nặng nề mà thậm chí vẫn cháy giáo án. Một số giáo viên đã quan tâm tới vận dụng các bảng biểu hệ thống cho tiết ôn tập song phần lớn học sinh vẫn còn bị động trong việc lĩnh hội kiến thức dẫn đến tình trạng học vẹt đôi khi còn lười nhác, ỷ lại. Từ cách dạy đó cho nên đã dẫn đến tình trạng các tiết ôn tập thường diễn ra trong không khí buồn tẻ, về mặt nhận thức cũng như kỹ năng, học sinh không lĩnh hội được gì hơn ngoài những kiến thức trước đây giáo viên đã cho ghi ở các bài học trước. Về phía giáo viên, sau khi thực hiện xong tiết dạy cũng không tự hài lòng được với mình. Nhưng đổi mới cách dạy như thế nào đối với các bài ôn tập thì vẫn bế tắc, bởi ngay cả sách giáo viên cũng chưa hướng dẫn cụ thể chi tiết.
	Điều đó đã làm tôi trăn trở mong muốn làm sao tổ chức một tiết dạy ôn tập mà HS được hoạt động nhiều, chủ động trong việc ôn tập lại kiến thức để giờ học không nặng nề mà vẫn đảm bảo thời gian theo phân phối chương trình. Đặc biệt, từ năm học 2011-2012, ngành Giáo dục đã triển khai chuyên đề “Ứng dụng công nghệ thông tin và bản đồ tư duy (BĐTD) hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học” tôi thấy việc vân dụng BĐTD trong dạy học bài ôn tập Ngữ văn là rất có hiêu quả, giải quyết được những khó khăn trên của giáo viên. Sau khi sử dụng BĐTD trong nhiều tiết dạy bài mới, đặc biệt là các tiết ôn tập: Tiết 83,84: Ôn tập phần Tập làm văn (kết hợp với phần Văn), và tiết 127: Ôn tập về thơ - Ngữ văn 9, tôi thấy HS hoạt động rất tích cực, giờ học sôi nổi khác hẳn so với những năm học trước. Từ đó, trong phạm vi của sáng kiến này, tôi sẽ tiếp tục vận dụng BĐTD trong việc thiết kế tiết 153: Ôn tập về truyện - Ngữ văn 9 tôi hi vọng những ý kiến nhỏ này sẽ giúp ích cho các bạn đồng nghiệp trong việc giảng dạy bài ôn tập Ngữ văn nói chung và bài này nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
	Nghiên cứu đề tài này để giúp cho giáo viên dạy Ngữ văn nâng cao chất lượng trong các giờ dạy. Đồng thời, giúp học sinh yêu thích học văn, có được những kiến thức Ngữ văn cơ bản và hoàn thiện nhất. Xuất phát từ lí do trên, bản thân tôi thực sự trăn trở và đã quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu đề tài: Nâng cao hiệu quả giờ học bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy bài “Ôn tập truyện” Tiết 153 - Ngữ văn 9 ở trường THCS Tào Xuyên.
 	 Với việc thực hiện đề tài này, tôi muốn tự nâng cao nhận thức, năng lực chuyên môn của bản thân. Đồng thời mong muốn bày tỏ, trao đổi với đồng nghiệp để góp phần cùng tìm cách “ giải mã”, tìm đáp án cho bài toán “ Tạo hứng thú học Văn” cho học sinh. Mục đích cuối cùng vẫn là mong muốn học sinh ngày càng yêu thích văn chương, hứng thú học Văn để không những có kết quả cao trong học tập mà ngày càng gần với Chân – Thiện- Mĩ để người giáo viên thực sự hoàn thành được nhiệm vụ của một “ Kĩ sư tâm hồn”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu. 
Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, đề tài tôi sẽ nghiên cứu là phương pháp sử dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy tiết 153 bài “Ôn tập truyện” cho học sinh lớp 9 năm học 2016- 2017 và năm học 2017-2018 Trường THCS Tào Xuyên Thành Phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Qua thực tế giảng dạy, tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu đặc thù của bộ môn Ngữ văn đúc rút được một số kinh nghiệm và những tác dụng của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Ngữ văn để tạo nên những giải pháp nhất định.
	- Phương pháp xây dựng cơ sở lý thuyết : Nghiên cứu tài liệu để áp dụng vào bài học .
	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin : Trong công tác giảng dạy giáo viên hiểu rõ tâm lí, năng lực của từng đối tượng học sinh, thông qua bài kiểm tra để đánh giá chất lượng học sinh.
	- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu, xây dựng sơ đồ tư duy : Phân tích và xử lý số liệu kết quả bài kiểm tra trước và sau khi áp dụng đề tài. 
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 
	Ôn tập là giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức đã học một cách toàn diện cô đọng nhất. Với tiết ôn tập truyện ( phần truyện hiện đại Việt Nam) là giúp học sinh củng cố kiến thức về những tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ văn 9 trên các phương diện về thể loại tự sự (nghệ thuật trần thuật, xây dựng nhân vật, cốt truyện, tình huống truyện) và cả năng lực cảm thụ, khái quát hóa. 
 Trong những năm gần đây định hướng đổi mới phương pháp dạy học là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Để phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh được suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn... được tham gia vào quá trình học tập để tự chiếm lĩnh kiến thức. Với định hướng chung đó, từ năm học 2011-2012 ngành Giáo dục đã triển khai chuyên đề “Ứng dụng công nghệ thông tin và bản đồ tư duy (BĐTD) hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học”. Đây là một trong những biện pháp thiết thực góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy.
BĐTD còn gọi là sơ đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt một ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề ... bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết.
 	Đối với bài ôn tập, kiến thức mà các em phải nhớ là rất nhiều. Đặc biệt đối với phần Văn, yêu cầu các em phải nhớ thông tin, số liệu về tác giả, tác phẩm và cả khái quát giá trị chung của tác phẩm. Trong khi đó, các tác phẩm truyện lại học rải rác ở cả học kì I và học kì II, các tiết học theo thứ tự tác phẩm cũng không tuân theo tiến trình thời gian, không theo chủ đề,... Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự diễn tả mạch logic kiến thức, cộng thêm màu sắc, đường nét sinh động sẽ giúp các em dễ nhớ và hiểu một cách sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, với hoạt động vẽ BĐTD, các em được tự do sáng tạo trong việc trình bày kiến thức của mình nên giờ ôn tập không còn nặng nề mà sôi nổi hơn. Từ đó việc tổ chức tiết ôn tập có hiệu quả rõ rệt so với trước đây. BĐTD - giúp học sinh  học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh  học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
2. 2 .Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Vài nét về tình hình chung và tình hình giáo dục của nhà trường.
* Về phía giáo viên:
- Nhìn chung đa số giáo viên của trường THCS Tào Xuyên có chuyên môn cao, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, ham học hỏi, chăm lo quan tâm đến học sinh. Đặc biệt được sự chỉ đạo sát sao, tận tình của Ban Giám hiệu nhà trường. 
* Về phía học sinh: 
- Học sinh của trường phần lớn là con, em gia đình muốn định hướng cho học các môn tự nhiên nên không đầu tư cho con, em mình học môn xã hội nói chung, môn Ngữ Văn nói riêng.
- Ngoài ra còn do ý thức học tập của học sinh: Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn. Có nhiều em lười hoặc không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong sách giáo khoa. Điều này có ảnh hưởng không ít đến chất lượng học tập bộ môn.
2.2.2. Thực trạng của chương trình Ngữ văn 9 THCS.
* Thuận lợi :
- Chương trình Ngữ Văn lớp 9 theo quy định về chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay là khá phù hợp với đa số đối tượng học sinh.
- Cách trình bày của sách giáo khoa thuận lợi cho việc thiết kế bài học thông qua sơ đồ tư duy, theo chủ đề tích hợp.
* Khó khăn :
- Một số bài ôn tập còn mang tính dạy lại nên nặng về lý thuyết, kênh hình ít khiến học sinh khó hiểu.
2.2.3. Thực trạng đối với giáo viên.
* Thuận lợi :
	- Đa số giáo viên đã cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy đối với bài ôn tập để phát huy tính tích cực của học sinh. 
	- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như sử dụng các bảng biểu, máy chiếu ...
* Khó khăn :
	- Qua dự giờ thăm lớp của một số đồng nghiệp còn lúng túng trong việc đưa ra những cách dạy vừa đảm bảo gói gọn kiến thức ôn tập trong thời gian quy định vừa cho học sinh có thời gian chủ động ôn tập những kiến thức trên lớp.
	- Chưa sử dụng triệt để các phương tiện hiện đại vào dạy các bài ôn tập như máy chiếu, băng hình... 
	- Một số câu hỏi ôn tập đòi hỏi khả năng tổng hợp kiến thức, học sinh không trả lời được nhưng giáo viên lại không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Vấn đề này được thể hiện rất rõ trong hoạt động thảo luận nhóm. Một số giáo viên chỉ biết nêu ra câu hỏi nhưng lại không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi đó như thế nào. 
	- Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động một số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng học sinh yếu kém. Cho nên đối tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động. Điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản trong giờ ôn tập.
2.2.4. Thực trạng đối với học sinh .
	* Thuận lợi : 
	- Đa số học sinh đã chú ý đến việc chuẩn bị bài ở nhà nên khi giáo viên tổ chức ôn tập, các em đã hoàn thành được các bài tập tái hiện kiến thức hay giải quyết được những vấn đề mang tính khái quát, suy luận. 
	- Các em đều tích cực tham gia thảo luận nhóm và đã đưa lại hiệu quả khá cao trong quá trình ôn tập.
	- Học sinh các lớp đại trà đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động học như thảo luận nhóm, vấn đáp, đọc sách giáo khoa, lập bảng hệ thống kiến thức. Các em đã mạnh dạn khi trả lời các câu hỏi hay chịu khó ghi nhớ thông tin về tác giả, tóm tắt tác phẩm. 
 * Khó khăn :
	- Học sinh thường trả lời câu hỏi giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn lại sách hoặc vở rồi đọc mà chưa có sự độc lập tư duy.
	- Học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (dạng trình bày), còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh  thì các em còn rất lúng túng. Giờ học vì vậy trở nên căng thẳng đối với cả thầy và trò.
- Rụt rè, thiếu tự tin, ngại phát biểu ý kiến, ít tranh luận, ngại lên bảng.
- Chưa tập trung vào bài giảng thậm chí làm việc riêng hoặc ngồi lì trong giờ học.
	- Về nhà không làm bài tập, học bài cũ, không chuẩn bị bài mới	
 	Từ thực trạng về các tiết ôn tập dẫn đến khả năng ghi nhớ kiến thức của các em về các tác phẩm truyện khá hạn chế. Bởi vậy, trên thực tế hàng năm khả năng lĩnh hội cũng như kĩ năng làm bài văn ở các em đạt kết quả chưa cao như mong muốn của người dạy. Trong các bài kiểm tra văn về phần truyện hay các bài viết nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) trong chương trình Ngữ văn 9, xa hơn là kì thi vào Phổ thông trung hoc chất lượng bài làm chưa cao, nhiều em bài thi môn Ngữ văn còn dưới 5. 
 Khi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 9 trong các năm học 2016 - 2017, kết quả bài kiểm tra Văn (phần truyện) của học sinh lớp 9 còn chưa được cao. Cụ thể :
Đề kiểm tra Văn phần truyện - Tiết 156.
Câu 1: Điền tên tác giả cho đúng với từng tác phẩm (đoạn trích) trong bảng dưới đây:
Tên tác phẩm
Tác giả
Làng
Lặng lẽ Sa Pa
Chiếc lược ngà
Những ngôi sao xa xôi
Câu 2: Nêu tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống truyện trong truyện ngắn "Làng" của Kim Lân.
Câu 3: Viết bài văn ngắn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ qua ba nhân vật nữ thanh niên xung phong trong truyện "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê. 
Cụ thể qua việc điều tra, khảo sát kết quả qua bài kiểm tra của học sinh trường THCS Tào Xuyên (Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm) như sau: 
Năm học: 2016-2017
Lớp
Sĩ số
Điểm 9 - 10
Điểm dưới 9 đến 6.5 
Điểm dưới 7 đến 5 
Điểm dưới 5 đến 3 
Điểm dưới 3
Tổng số
%
Tổng
số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
9A
23
1
4,3
7
30,5
10
43,5
4
17,4
1
4,3
9B
24
0
0
7
29,2
9
37,5
6
25
2
8,3
Tổng
47
1
2,1
14
29,8
19
40,4
 10
21,3
3
6,4
Từ thực trạng trên, để giúp học sinh lớp 9 học tập có hiệu quả hơn nữa phần truyện hiện đại Việt Nam qua tiết ôn tập, với mong muốn học sinh lĩnh hội và tiếp thu kiến thức bài học có chất lượng cao hơn, trong năm học 2017 - 2018, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp dạy học qua đề tài: Nâng cao hiệu quả giờ học bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy bài “Ôn tập truyện” Tiết 153 - Ngữ văn 9 ở trường THCS Tào Xuyên.
2.3. Các giải pháp thực hiện đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
 Trước hết chúng ta phải thấy rằng: Dù áp dụng phương pháp gì thì khi dạy tiết 153: Ôn tập về truyện người dạy phải dạy theo đúng đặc trưng của một bài ôn tập. Có nghĩa là không phải "dạy lại" kiến thức mà chỉ dạy làm sao giúp học sinh củng cố lại kiến thức, khái quát và hiểu kiến thức ở mức độ sâu sắc hơn; đồng thời rèn kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh. 
 Sau khi được tiếp thu chuyên đề “Ứng dụng công nghệ thông tin và bản đồ tư duy hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học" tôi thấy có nhiều ý kiến cho rằng: BĐTD về bản chất cũng chính là cách vẽ sơ đồ mà lâu nay rất nhiều giáo viên đã áp dụng. Bản thân tôi, trong quá trình giảng dạy tôi đã luôn sử dụng phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trên bảng thông qua các bảng biểu. Với dạng bài ôn tập thì việc sơ đồ hóa các đơn vị kiến thức đã học là rất cần thiết. Vài năm trở lại đây, khi công nghệ thông tin được áp dụng trong dạy học thì việc vẽ sơ đồ được tiện lợi hơn vì có sự hỗ trợ của máy tính. Tuy nhiên, việc vẽ trên máy tính còn nhiều hạn chế về thẩm mĩ. Và phầm mềm BĐTD đã giúp tôi giải quyết được hạn chế đó. Không những thế, việc vận dụng BĐTD trong dạy học Ngữ văn đã cải thiện phần nào tình trạng chán học, ngại học môn Ngữ văn của học sinh. Sau một thời gian tích cực tìm tòi để đưa BĐTD vào trong nhiều bài giảng, đặc biệt trong các bài ôn tập, tôi thấy học sinh sôi nổi phát biểu xây dựng bài, các em rất hứng thú trong giờ học, khác hẳn với không khí nặng nề như trước đây. 
 Trong chương trình Ngữ văn 9, bài: Ôn tập về truyện (phần truyện hiện đại Việt Nam) có nhiều đơn vị kiến thức học sinh rất khó nhớ. Vì vậy, tôi đã thiết kế bài dạy này có sử dụng nhiều BĐTD với mục đích giúp các em được hoạt động sôi nổi và giờ ôn tập có hiệu quả cao hơn. Để đạt được mục đích đó, với bài ôn tập này tôi đưa ra 4 giải pháp: 
 2.3.1. Giải pháp 1: Tổng hợp, lựa chọn kiến thức trọng tâm cần ôn tập. 
	Với tiết Ôn tập về truyên, phân phối chương trình môn Ngữ văn cho phép thời lượng 2 tiết ( tiết 153, 154). Trong hai tiết học, học sinh phải ôn tập kiến thức về phần truyện hiện đại Việt Nam trong cả năm học lớp 9, bao gồm các bài sau:
	Tiết 61, 62:	Làng
	Tiết 66, 67: 	Lặng lẽ Sa Pa
	Tiết 71, 72: 	Chiếc lược ngà
	Tiết 136: Đọc thêm: Bến quê
	Tiết 141,142: Những ngôi sao xa xôi
	Như vậy, HS đã được học 5 tác phẩm truyện của Việt Nam. Đề tài và nội dung các tác phẩm này rất đa dạng, mở ra những bức tranh phong phú của đời sống và con người ở rất nhiều vùng, miền, đất nước, trong nhiều hoàn cảnh, với những tính cách và số phận khác nhau. Việc ôn tập nhằm giúp học sinh có được cái nhìn bao quát và có tính hệ thống để dễ ghi nhớ kiến thức về các tác phẩm đã học. Nhưng việc hệ thống hóa các kiến thức không có nghĩa chỉ rút ra những điểm chung của các tác phẩm mà bỏ qua tính độc đáo, riêng biệt của từng hiện tượng... Như vậy, với số lượng các tác phẩm truyện trên, trong thời lượng 90 phút nếu giáo viên không lựa chọn hình thức tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp thì sẽ không thể hướng dẫn cho học sinh ôn tập hết được tất cả các đơn vị kiến thức cũng như việc cho học sinh ôn tập kĩ các đơn vị kiến thức đã học. Đặc b

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_hieu_qua_gio_hoc_bang_phuong_phap_su_dung_ban.doc