SKKN Một số kinh nghiệm giúp giáo viên chủ nhiệm giáo dục học sinh cá biệt về đạo đức ở trường THCS & THPT Thống Nhất

SKKN Một số kinh nghiệm giúp giáo viên chủ nhiệm giáo dục học sinh cá biệt về đạo đức ở trường THCS & THPT Thống Nhất

Gần đây trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình, mạng internet đã phản ánh khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt về đạo đức. Hiện nay trong các nhà trường nói chung và trường THCS&THPT Thống Nhất nói riêng đều có một bộ phận nhỏ học sinh không chấp hành tốt nội qui nhà trường, học tập không nghiêm túc, gây gổ đánh nhau, sống buông thả, vô lễ Học sinh cá biệt dù không nhiều nhưng đã làm ảnh hưởng đến nền nếp và chất lượng học tập của lớp, của trường, gây ít nhiều khó khăn trong giảng dạy của các giáo viên bộ môn và tạo nên sự mệt mỏi của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đề ra mục tiêu tổng quát: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”.

Để có được mục tiêu đó, đòi hỏi người giáo viên trong mỗi nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa dạy chữ vừa dạy người, đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách.

 

doc 16 trang thuychi01 9255
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm giúp giáo viên chủ nhiệm giáo dục học sinh cá biệt về đạo đức ở trường THCS & THPT Thống Nhất", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM 
GIÁO DỤC HỌC SINH “CÁ BIỆT” VỀ ĐẠO ĐỨC
Ở TRƯỜNG THCS&THPT THỐNG NHẤT
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài: 
Gần đây trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình, mạng internet đã phản ánh khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt về đạo đức. Hiện nay trong các nhà trường nói chung và trường THCS&THPT Thống Nhất nói riêng đều có một bộ phận nhỏ học sinh không chấp hành tốt nội qui nhà trường, học tập không nghiêm túc, gây gổ đánh nhau, sống buông thả, vô lễ  Học sinh cá biệt dù không nhiều nhưng đã làm ảnh hưởng đến nền nếp và chất lượng học tập của lớp, của trường, gây ít nhiều khó khăn trong giảng dạy của các giáo viên bộ môn và tạo nên sự mệt mỏi của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. 
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đề ra mục tiêu tổng quát: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. 
Để có được mục tiêu đó, đòi hỏi người giáo viên trong mỗi nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa dạy chữ vừa dạy người, đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách.
Bản thân là cán bộ quản lý, đã trải qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, tôi dần nắm bắt được tâm lý học trò, hiểu được những khó khăn của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm khi lớp có học sinh cá biệt về đạo đức. Mặc dù việc giáo dục học sinh cá biệt là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Nhưng tôi vẫn thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm của mình, giúp đội ngũ GVCN cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả. 
Trường THCS&THPT Thống Nhất là Trường có mô thức THCS và THPT, đứng chân ở vùng trung du giáp 4 huyện: Yên Định – Thọ Xuân – Ngọc Lặc – Cẩm Thuỷ. Học sinh của trường là con em đồng bào dân tộc Mường huyện Ngọc Lặc, huyện Cẩm Thuỷ và của xã miền núi huyện Yên Định, Thọ Xuân. Chất lượng tuyển sinh chưa cao, nên qua quá trình học tập một bộ phận học sinh đã có tình trạng như thường xuyên không thuộc bài, không làm bài tập, bỏ học, bỏ giờ, mê chơi game, không chấp hành nội quy nề nếp trường lớp, từ đó dẫn đến các tiêu cực khác và trở thành học sinh cá biệt. Những học sinh cá biệt về đạo đức dù số lượng không nhiều, nhưng gây không ít khó khăn trong công tác của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Với quyết tâm giúp đội ngũ thầy cô làm công tác chủ nhiệm tôi mạnh dạn viết đề tài “Một số kinh nghiệm giúp giáo viên chủ nhiệm giáo dục học sinh cá biệt về đạo đức ở trường THCS&THPT Thống Nhất”.
1.2. Mục đích nghiên cứu: 
Nghiên cứu của tôi giúp giáo viên chủ nhiệm có phương pháp tốt trong giáo dục đạo đức học sinh, đồng thời làm cho những học sinh cá biệt về đạo đức có sự chuyển biến, thay đổi ý thức trong học tập rèn luyện theo hướng tích cực. Giúp các em biết tự tôn trọng bản thân mình và nhận thức tốt hơn việc học tập tu dưỡng. 
Tôi cũng mong rằng qua đề tài này, phần nào giúp cho các thầy cô thấy rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối công tác chủ nhiệm. Đồng thời giúp cho một số ít thầy cô xóa đi tư tưởng kỳ thị, phân biệt đối xử lạnh lùng, khắt khe với những học sinh chưa ngoan.
1.3. Đối tượng nghiên cứu: 
Trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về công tác giáo dục học sinh cá biệt về đạo đức ở trường THCS&THPT Thống Nhất trong các năm học gần đây. 
1.4. Phương pháp nghiên cứu : 
- Phương pháp quan sát các hoạt động tập thể của học sinh, trò chuyện với học sinh để hiểu rõ tâm tư nguyên vọng .
- Phương pháp khảo sát: khảo sát các hoạt động chủ nhiệm lớp của một số đồng nghiệp cùng trường và khác trường.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: so sánh, đối chiếu kết quả tu dưỡng rèn luyện ở những tập thể lớp có sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm so với các lớp chưa được giáo viên chủ nhiệm quan tâm.
- Phương pháp điều tra, thống kê : Điều tra thái độ và phân tích kết quả rèn luyện của học sinh. Ngoài ra, tôi còn nghiên cứu tài liệu, thu thập thêm thông tin từ tài liệu, internet.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
 Năm 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ nội dung Giáo dục của Chương trình giáo dục mới là: “Tiếp tục tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hoá, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại; bảo đảm yêu cầu cơ bản, hiện đại, phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi của HS các cấp học” 
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng, muốn trở thành người có ích cho xã hội thì cần phải hội đủ hai điều kiện : đức và tài như Bác Hồ đã từng nói :“ Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó , còn có tài mà không có đức thì là người vô dụng ”
Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục:
“ Tiên học lễ, hậu học văn”. Ngày nay, phương châm “ Dạy người, dạy chữ, dạy nghề” cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức, như Bác Hồ đã dạy: “ Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định...”.
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân. Một trong những tư tưởng đổi mới giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh bởi vì dạy học không chỉ dạy chữ mà dạy làm người, đi học không phải chỉ học chữ mà học làm người.
Đối với học sinh PTTH độ tuổi tâm sinh lí có nhiều thay đổi, tuổi nhanh nhẹn, sôi nổi, có nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, khám phá, thích giao lưu để khẳng định mình, tuổi có nhiều ước mơ. Do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, bên cạnh mặt tích cực không tránh khỏi các mặt tiêu cực làm cho một bộ phận học sinh có biểu hiện sa sút về đạo đức, nhận thức lệch lạc, thiếu ý thức cộng đồng, tình trạng bạo lực còn diễn ra Các em chưa có ý thức trách nhiệm cao về hành vi của mình dễ dẫn đến những sai phạm. Thực trạng đó khiến công tác chủ nhiệm gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải có những kĩ năng, phương pháp và cả tấm lòng thì mới có thể giáo dục các em có hiệu quả. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
Trong những năm gần đây, sự phát triển Kinh tế - Xã hội đã mang lại không ít những thuận lợi cho công tác giáo dục trong nhà trường. Sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ xã hội, cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đảm bảo cho việc dạy và học. Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong phối hợp giáo dục; đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động giáo dục của giáo viên chủ nhiệm. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn gặp không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học sinh: xu hướng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là game online Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức, quản lí học sinh. 
Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc làm ăn nên thời gian dành cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường và xã hội. Học sinh thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số em do được chiều chuộng nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo. 
Thực tế công tác chủ nhiệm là kiêm nhiệm, chưa có một khoá đào tạo chính thức nào về nghiệp vụ cho GVCN. Vì vậy, GV làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi đồng nghiệp trong nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho GVCN còn ít, chưa tương xứng với công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức thuần tuý, số tiết giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức học sinh còn quá ít. Hơn nữa tuổi học sinh là tuổi có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nếu không có phương pháp giáo dục tốt thì chiều hướng học sinh hư, lười học, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều. 
Bên cạnh đó nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí thì cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. 
*Một số nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt về đạo đức:
- Do tác động của xã hội, bị bè bạn không tốt lôi kéo.
- Sự kích động của phim ảnh, các trò trơi bạo lực từ game.
- Chưa có sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái.
- Do gia đình khá giả, chỉ biết cung cấp tiền cho con mà không quan tâm đến kết quả học tập của con mình, dẫn đến tính ỷ lại.
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải làm thêm giúp gia đình nên thường xuyên bỏ học, học lực sa sút.
- Do cho mẹ ly hôn, dẫn đến buồn chán.
- Do GVCN chưa có phương pháp giáo dục hiệu quả
*Một số biểu hiện của học sinh cá biệt về đạo đức :
- Bỏ học, bỏ tiết, đi học muộn.
- Không mặc đồng phục, không đeo phù hiệu.
- Đầu tóc dị hình dị màu.
- Luôn có tư tưởng quấy phá, gây mất trật tự trong giờ học.
- Không chú ý nghe thầy cô giảng dạy
- Thiếu văn hóa (nói tục, chửi thề).
- Đùa giỡn, chọc ghẹo, thiếu lễ phép, thích trêu ngươi người khác 
- Sách vở không đầy đủ, thường xuyên không chép bài.
- Mê chơi game, lôi kéo, rủ rê bè bạn.
- Hay cãi lí với bố mẹ và thầy cô; Sẵn sàng bỏ học đi chơi cùng bạn
- Thường nói dối, thậm chí nói láo với người trên 
Khắc phục những khó khăn trên trong công tác giáo dục đạo đức học sinh cá biệt không phải là điều dễ dàng và đơn giản. Tuy nhiên, tôi xin được đưa ra một số kinh nghiệm để chia sẻ cùng đội ngũ GVCN. 
2.3. Một số kinh nghiệm giúp GVCN giáo dục học sinh cá biệt về đạo đức
2.3.1. Luôn có phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu” 
- Bản thân người GVCN phải luôn là tấm gương sáng, luôn có tâm, sống và làm việc mẫu mực và hiểu biết tâm lý từng học sinh mình chủ nhiệm. 
- Người GVCN phải có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề, yêu thương học sinh và luôn luôn xác định phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”.
- Biết kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, có sự nhạy cảm sư phạm, biết dùng yếu tố tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá biệt. 
- Luôn tìm hiểu nguyên nhân một cách cặn kẽ mỗi sự việc, hiện tượng, tìm hiểu sở trường, tính cách, hoàn cảnh của HS. 
a) Những điều nên tránh:
- Tuyệt đối không cô lập học sinh cá biệt đối với tập thể
- Tuyệt đối không xúc phạm danh dự của học sinh trước tập thể.
- Không nên quá khắt khe bằng những hình thức kỷ luật nặng nề, không nên đe dọa, không dùng lời lẽ chỉ trích, nói như một nhà sư phạm “không được dùng búa để mổ một con gà”
- Tuyệt đối không được đánh học sinh, theo lời giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, thì “Quả đấm không phải là khoa học”.
- Không nên phủ nhận những chuyển biến tích cực dù là nhỏ của HS cá biệt.
  b) Những điều nên làm: 
- Đối với HS cá biệt, người GVCN phải biết nhìn bằng con mắt của tình thương và sự thông cảm, nên có sự bao dung của người mẹ, người cha, sự gần gũi cảm thông của người anh, người chị và cái thân thiết của một người bạn.
- Giành thời gian để tâm tình, gặp gỡ, trao đổi với các em, với gia đình, người thân của các em ...
- Nhẹ nhàng phân tích những mặt ưu, khuyết, đúng sai trong nhận thức, suy nghĩ của các em ... Giúp các em nhận biết những ưu điểm của mình để phát huy. Không nên nói những câu phũ phàng, như : “ở em chẳng có điểm nào tốt cả”, “Người như em thật chẳng ra gì!”. Hoặc bi đát hơn “cuộc đời em rồi chẳng ra làm sao đâu”...
- GVCN phải tìm cách giúp học sinh cá biệt khắc phục sửa chữa những sai phạm của mình và động viên khích lệ kịp thời, vì một lời khen học sinh cá biệt sẽ có tác dụng hơn là một tờ tự kiểm. 
Trong sự nghiệp trồng người thì học sinh cá biệt giống như trồng cái cây không mọc thẳng, đòi hỏi mỗi GVCN phải dày công dạy dỗ. Đổi lại sự vất vả là niềm vui thật sự khi biện pháp giáo dục của mình thành công, khi người học sinh chưa ngoan của mình biết nhận lỗi một cách thành khẩn, khi cái tâm thanh thản khi ta đã cố gắng hết khả năng của mình. 
2.3.2. Sưu tầm các vở kịch ngắn để học sinh cá biệt cùng tham gia đóng vai 
a. Tác dụng
Giúp học sinh cá biệt có thêm kỹ năng hòa nhập, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, từ vai diễn học sinh đặt mình vào vị trí của người khác để từ đó biết điều chỉnh hành vi, cách thức ứng xử của mình trong lớp.
Không cần sử dụng những câu nhắc nhở suông, nhàm chán như trước đây, việc đóng vai thông qua những lời đối thoại, những động tác biểu diễn, giúp các em tự tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái, thay đổi nhận thức một cách nhanh chóng, đồng thời còn tạo ra tiếng cười vui vẻ của thầy và trò khi bước vào giờ học mới. 
b. Quy trình thực hiện
Giờ sinh hoạt 15 phút, hoặc sinh hoạt cuối tuần GVCN giành thời gian giới thiệu cho học sinh câu chuyện ngắn, tình huống mà các em sẽ đóng vai, Phân vai cho các học sinh ( để HS cá biệt được đóng vai ) Các “diễn viên” đọc kịch bản và chuẩn bị lên biểu diễn trước tập thể lớp. GVCN Trao đổi rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết.
Ví dụ : Nội dung vở kịch ngắn “ Vết thương” 
Một cậu bé có tính xấu là rất hay nổi nóng. Một hôm cha cậu đưa cho cậu một túi đinh và nói rằng mỗi khi con nổi nóng thì hãy chạy ra đằng sau nhà đóng một cái đinh lên hàng rào gỗ. Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần cậu bé đã tập kiềm chế cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào mỗi ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình thì dễ hơn là phải đóng cây đinh lên hàng rào. 
Một ngày kia, cậu đã không nổi giận một lần nào suốt cả ngày. Cậu nói với cha và ông bảo cậu: “ nếu ngày nào con không nổi nóng con hãy nhổ một cái đinh ra khỏi hàng rào”. Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một bữa cậu bé báo rằng đã không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu đã cùng cậu đến bên hàng rào và nói với cậu rằng "Con đã làm rất tốt, nhưng hãy nhìn những lỗ đinh trên hàng rào. Hàng rào đã không thể giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói đó cũng giống như những lỗ đinh này, để lại những vết sẹo trong lòng người khác. Dù sau đó con có nói xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương đó vẫn còn ở lại. Vết thương tinh thần cũng đau đớn như những vết thương thể xác vậy. Những người xung quanh ta, bạn bè ta là những viên đá quý. Họ giúp con cười và giúp con trong mọi chuyện. Họ nghe con nói khi con gặp khó khăn, cổ vũ con và luôn sẵn sàng mở rộng tấm lòng mình cho con. Hãy nhớ lấy lời cha..."
Tình huống trên muốn gửi tới học sinh một thông điệp rất ý nghĩa. Trong cuộc sống, mỗi người biết kiềm chế sự nóng giận của mình, đừng vội vàng nổi nóng buộc người khác phải theo ý mình một cách máy móc. Chúng ta phải đặt mình vào vị trí của người khác khi họ bất đồng quan điểm với mình thì mối quan hệ với mọi người sẽ hài hòa hơn, cuộc sống sẽ tươi đẹp hơn. Học sinh “ cá biệt” được tham gia đóng vai sẽ tự nhìn ra con người mình, tự rút kinh nghiệm cho mình và có cách xử sự đúng với mọi người. 
Tương tự như vậy, GVCN có thể sưu tầm trên mạng, hoặc tự xây dựng các vở kịch, tiểu phẩm giáo dục HS biết chấp hành các quy định về an toàn giao thông, biết lễ phép giúp đỡ người lớn tuổi, không tham gia trò chơi bạo lực, giữ vệ sinh môi trường...
2.3.3. Kể những câu chuyện có giá trị giáo dục .
Việc kể chuyện luôn tạo không khí vui vẻ thoải mái, có tác dụng giáo dục cao nhưng nhẹ nhàng. Vừa nâng cao vốn hiểu biết về xã hội, cuộc sống cho học sinh vừa phát huy tính tích cực trong hoạt động và học tập và quan trọng nhất là hình thành nhân cách cho học sinh.
GVCN Chọn những câu chuyện ngắn, hấp dẫn, có nội dung phù hợp với mục đích cần đạt được. Khi kể không nói tên chuyện, có thể đặt câu hỏi có liên quan đến các tình huống trong chuyện. Kết thúc câu chuyện, yêu cầu học sinh đặt cho câu chuyện vừa nghe theo các cách thể hiện khác nhau.
Ví dụ 1: GVCN Yêu cầu cả lớp lắng nghe và đặt tên cho câu chuyện. Trong quá trình kể cô sẽ hỏi các em về diễn biến của câu chuyện. 
Thời kỳ "oai hùng" của Nguyễn Vũ Xuân Trường kéo dài khá lâu nhưng "lừng lẫy" nhất là lúc học lớp 10. Đá bóng trong sân trường, đi học muộn, bỏ giờ, chơi điện tử, tóc húi cua, phá bàn ghế, đánh nhau... là những chuyện thường xuyên có mặt Trường.
Từ hồi Trường còn bé, người mẹ tội nghiệp của Trường đã nhiều lần phải tới trường với tư cách không lấy gì làm tự hào cho lắm - phụ huynh của một học sinh cá biệt. Luôn tiên phong trong các trò nghịch ngợm, Trường cũng "tiên phong" trong hàng ngũ đội sổ của lớp - một kỷ lục mà nhiều năm liền anh không chịu "nhường" cho ai. Năm lớp 10, điểm của Trường chỉ vừa đủ để không bị lưu ban, tức chỉ 3,5 điểm và hơn một tí cho tất cả các môn.
Cho rằng việc học không quan trọng, Trường đã bỏ học ngay đầu năm lớp 11 và sau hai năm lao động tự do 
(Câu hỏi 1: Sau 2 năm lao động Trường có cảm nhận như thế nào?)
Một ngày nọ, khát vọng trở lại trường học cháy bỏng trong Trường. Hai năm bỏ bê đèn sách, mất kiến thức căn bản, và 18 tuổi để bắt đầu đi học trở lại... đó là những khó khăn thách thức Trường trên con đường mới.
Ngay khi còn chưa biết phải làm gì thì cô giáo chủ nhiệm của anh tại Trung tâm giáo dục thường xuyên đã dìu anh những bước đầu tiên khó nhọc. Ngoài giờ học trên lớp, giờ ra chơi, sau giờ tan học, hay những buổi tối tại nhà, cô và trò đã từng bước khuất phục sự "khiêu khích" đáng ghét của môn Hóa - môn yếu nhất của Trường.
 (Câu hỏi 2: Hãy dự đoán xem kết quả học tập của Trường sẽ như thế nào?)
Cứ thế, ngoài việc đi làm thêm, Trường lại vùi đầu vào sách vở. Một học kỳ, rồi thêm một học kỳ, từ chỗ mất căn bản, anh học trò lớn tuổi nhất lớp này đã tiến thẳng lên tốp khá của lớp, điểm số môn nào cũng cao. Nhưng điều mà có lẽ khó để một học sinh cá biệt nào có thể làm được chính là đỗ vào Trường Đại Học.
GV Yêu cầu học sinh đặt tên cho câu chuyện: ( Sự thức tỉnh của một học sinh cá biệt; tương lai rộng mở với những người có nghị lực )
Qua câu chuyện, học sinh nhất là những học sinh cá biệt nhận thức rõ rằng, nếu mình có quyết tâm, có nghị lực thì cánh cửa tương lai sẽ rộng mở. Mình phải cố gắng thực hiện quyết tâm đó khi còn chưa muộn. 
Sau khi sử dụng phương pháp này, tôi đã thấy được sự chuyển biến tích cực, từ việc các học sinh cá biệt nghỉ học thường xuyên, không xin phép, đến xin phép khi vắng học và sau đó các em đi học đầy đủ. Các em đã có cố gắng học bài và làm bài đầy đủ từ đó kết quả học tập có sự tiến bộ, phong trào thi đua của lớp được nâng lên. Ngoài ra, các em cũng tự tin, cởi mở hơn khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô, mạnh dạn hỏi về những vấn đề mình chưa hiểu rõ.
Ví dụ 2: Giáo viên kể câu chuyện 
Một buổi tối, Lý cãi nhau với mẹ, rồi không mang gì theo, cô đùng đùng ra khỏi nhà. Trong lúc đang lang thang trên đường, cô mới nhớ ra rằng mình chẳng có đồng bạc nào trong túi, thậm chí không có đủ mấy xu để gọi điện về nhà. Cùng lúc đó, cô đi ngang qua một quán mì, mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm cô chợt cảm thấy đói ngấu. Cô 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_giup_giao_vien_chu_nhiem_giao_duc_ho.doc