SKKN Một số giải pháp trong công tác chủ nhiệm thông qua biện pháp “Giáo dục học sinh bằng kỉ luật tích cực ở trường Dân Tộc Nội Trú”
Trong thời gian công tác tại trường PT cấp II DT Nội Trú Ngọc Lặc, từ năm 2011 đến nay. Ngoài công tác chuyên môn bản thân tôi được giao nhiệm vụ kiêm nhiệm làm giáo viên chủ nhiệm lớp. Với đặc thù của trường Dân tộc Nội trú cấp huyện HS là con em người dân tộc thiểu số, không phải thi tuyển khi vào trường mà chỉ xét tuyển theo chỉ tiêu vùng miền trong địa bàn huyện vì vậy khi nhập trường thực tế có nhiều em chưa chủ động học tập, chậm tiến bộ trong quá trình hòa nhập với cuộc sống tập thể, và cuộc sống tự lập của HS nội trú.
Như chúng ta đã biết mục tiêu giáo dục của trường PT cấp II DT Nội Trú là ngoài việc dạy kiến thức văn hóa cho HS còn là nơi giáo dục và đào tạo toàn diện nguồn cán bộ cho các xã trong huyện vì vậy việc rèn luyện tính kỉ luật cho các em HS nội trú là việc rất cần thiết. Ý thức được nhiệm vụ quan trọng đó nên tôi đó đi sâu nghiên cứu và thử nghiệm đề tài này về công tác chủ nhiệm lớp và cùng với lý do đó việc giáo dục HS bằng kỉ luật tích cực là một việc làm vô cùng khó khăn, nó đòi hỏi sự kết hợp vận dụng linh hoạt và sáng tạo nhiều biện pháp, phương pháp và hình thức giáo dục. Đặc biệt là HS trường Nội Trú, đòi hỏi GVCN lớp phải đổi mới phương pháp chủ nhiệm theo hướng tích cực. Mục đích là để đào tạo học sinh Nội Trú trở thành những con người toàn diện: Giỏi về kiến thức, tốt về phẩm chất đạo đức. Muốn đạt được nhiệm vụ đó mỗi người giáo viên đến trường không chỉ truyền đạt kiến thức văn hóa mà còn phải có những biện pháp sư phạm giáo dục HS, phải xây dựng nhà trường trở thành “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong thời gian công tác tại trường PT cấp II DT Nội Trú Ngọc Lặc, từ năm 2011 đến nay. Ngoài công tác chuyên môn bản thân tôi được giao nhiệm vụ kiêm nhiệm làm giáo viên chủ nhiệm lớp. Với đặc thù của trường Dân tộc Nội trú cấp huyện HS là con em người dân tộc thiểu số, không phải thi tuyển khi vào trường mà chỉ xét tuyển theo chỉ tiêu vùng miền trong địa bàn huyện vì vậy khi nhập trường thực tế có nhiều em chưa chủ động học tập, chậm tiến bộ trong quá trình hòa nhập với cuộc sống tập thể, và cuộc sống tự lập của HS nội trú. Như chúng ta đã biết mục tiêu giáo dục của trường PT cấp II DT Nội Trú là ngoài việc dạy kiến thức văn hóa cho HS còn là nơi giáo dục và đào tạo toàn diện nguồn cán bộ cho các xã trong huyện vì vậy việc rèn luyện tính kỉ luật cho các em HS nội trú là việc rất cần thiết. Ý thức được nhiệm vụ quan trọng đó nên tôi đó đi sâu nghiên cứu và thử nghiệm đề tài này về công tác chủ nhiệm lớp và cùng với lý do đó việc giáo dục HS bằng kỉ luật tích cực là một việc làm vô cùng khó khăn, nó đòi hỏi sự kết hợp vận dụng linh hoạt và sáng tạo nhiều biện pháp, phương pháp và hình thức giáo dục. Đặc biệt là HS trường Nội Trú, đòi hỏi GVCN lớp phải đổi mới phương pháp chủ nhiệm theo hướng tích cực. Mục đích là để đào tạo học sinh Nội Trú trở thành những con người toàn diện: Giỏi về kiến thức, tốt về phẩm chất đạo đức. Muốn đạt được nhiệm vụ đó mỗi người giáo viên đến trường không chỉ truyền đạt kiến thức văn hóa mà còn phải có những biện pháp sư phạm giáo dục HS, phải xây dựng nhà trường trở thành “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Phấn đấu để trường PT cấp 2 Dân Tộc Nội Trú thực sự trở thành “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” thầy và trò đã cố gắng rèn luyện không ngừng. Trong công tác giáo dục HS một cách toàn diện, GVCN đóng một vai trò quan trọng. GVCN vừa là bố mẹ nuôi vừa là anh chị phụ trách gương mẫu, là người chịu trách nhiệm thực hiện trước mọi quyết định của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. Là người vạch ra kế hoạch, tổ chức cho lớp chủ nhiệm thực hiện các chủ đề theo kế hoạch nhà trường, đồng thời theo dõi đánh giá việc thực hiện của lớp. GVCN cần phải phối hợp tốt với các tổ chức trong nhà trường như: Đoàn, Đội, Quản sinh, hội cha mẹ HS và giáo viên bộ môn trong quá trình giáo dục HS mới mong đạt được kết quả tốt. Là GVCN lớp cần xác định rõ nhiệm vụ của mình trong việc giáo dục HS con em các dân tộc thiểu số cần phải nhận thức rằng nhân cách và thói quen của con người khi đã được hình thành rất khó thay đổi (đặc biệt là những thói quen xấu). Vì vậy giáo dục toàn diện cho HS phát triển cảc về nhân cách và trí tuệ là công việc không phải dễ dàng trong tình hình hiện nay, đạo đức của một bộ phận học sinh xuống cấp nghiêm trọng. Mỗi GVCN muốn làm tốt nhiệm vụ của mình phải luôn đổi mới phương pháp giáo dục HS bằng kỷ luật tích cực. Phải nhiệt tình tâm huyết, thương yêu HS như con em mình. Trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp ở đơn vị công tác trường PT cấp II DT Nội Trú tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm để giáo dục HS trở thành những con ngoan, trò giỏi, những công dân có ích cho đất nước. đó là: Một số giải pháp trong công tác chủ nhiệm thông qua biện pháp “Giáo dục học sinh bằng kỉ luật tích cực ở trường Dân Tộc Nội Trú”. Mong rằng những kinh nghiệm mà tôi đưa ra sẽ được nhiều đồng nghiệp cùng chia sẻ. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Lứa tuổi thiếu niên bao gồm những học sinh THCS có độ tuổi từ 11, 12 đến 15 tuổi là giai đoạn có nhiều biến đổi mạnh. “ Tuổi khủng hoảng” Về mặt tâm lí đây là thời kì chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ lên tuổi trưởng thành, đặc điểm chung của lứa tuổi này “ Vừa trẻ con vừa có tính người lớn” các em muốn được khẳng định mình như người lớn. [2]. Nếu GVCN khi sử lí tình huống sảy ra hàng ngày đối với các em không khéo léo, sẽ nảy sinh tình trạng HS không nghe lời dẫn tới phản tác dụng giáo dục. Đặc biệt đối với HS Nội Trú nếu không hiểu tâm lí của các em, không có biện pháp xử lí phù hợp khi các em mắc lỗi sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực, HS có thể tự ý bỏ học, bỏ trường về nhà gây cản trở và tác động không tốt đến phong trào giáo dục chung của nhà trường. Vì vậy việc sử dụng các giải pháp trong công tác chủ nhiệm “ Giáo dục học sinh bằng kỉ luật tích cực” là rất cần thiết. Đó là mục đích tôi nghiên cứu đề tài này. Thực tế trong quá trình công tác bản thân tôi đã được cử làm chủ nhiệm lớp rất nhiều năm. Nhận chủ nhiệm từ lớp 6 đến lớp 9, theo suốt khoá học, được gần gũi giáo dục các em trong thời gian dài cô - trò rất hiểu nhau. Trong 4 năm của một khóa học lớp tôi chủ nhiệm thường được BGH đánh giá là lớp có phong trào học tập tốt, hoạt động tập thể nhiệt tình, tự giác. Để đạt được điều đó tôi đã học hỏi đồng nghiệp, nỗ lực và nhiệt tình để hoàn thành nhiệm vụ mà lãnh đạo giao cho. Trong quá trình làm chủ nhiệm tôi đã đúc rút kinh nghiệm và hoàn thiện dần các phương pháp giáo dục với mong muốn có những học sinh ngoan, tập thể lớp vững mạnh phát huy hơn nữa truyền thống của nhà trường . 3 Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 8B trường PT cấp II DT Nội Trú khoá học 2014- 2018 - Những kinh nghiệm và tổng kết về phương pháp giáo dục học sinh bằng kỉ luật tích cực. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu dựa vào việc xây dựng cơ sở lí thuyết dựa trên phương pháp giáo dục HS Dân Tộc Nội Trú và công tác chủ nhiệm lớp. - Phương pháp điều tra khảo sát tình hình thực tế của HS. - Phương pháp thu thập sử lí thông tin số liệu trong quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Ghi chú: ở mục 2 Đoạn “Lứa tuổi thiếu niên như người lớn” tác giả tham khảo nguyên văn từ tài liệu tham khảo số 2. Đoạn tiếp theo do tác giả tự viết ra. II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận của vấn đề * Dựa vào cơ sở lí luận Dựa trên việc học tập quán triệt nghị quyết Trung ương IV khoá XII của Đảng về công tác giáo dục. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nền tảng dân trí ngày càng được nâng cao, giáo dục đào tạo phải phát triển mạnh mẽ, Đảng ta đã lấy giáo dục làm quốc sách hàng đầu. [1]. Để làm tốt nhiệm vụ đó Giáo Dục - đào tạo phải có một chiến lược nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng những nhân tài trên tất cả các lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật ... Đồng thời tiếp thu khoa học công nghệ của thế giới để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó chính là lý tưởng mà Đảng và Nhân dân ta đang quyết tâm thực hiện bằng được. [1]. *Cơ sở thực tiễn: Trong thực tế đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa có đề tài nào phù hợp với đối tượng HS nội trú từ thực tế công tác chủ nhiệm của mình tôi nhận thấy trong nhà trường Cấp 2 DT Nội Trú hiện nay mỗi tập thể lớp là một nhân tố quyết định chất lượng giáo dục văn hóa, đạo đức, thể chất của nhà trường. Do đặc thù tâm lý học sinh Cấp 2 DT Nội Trú lứa tuổi từ 12 đến 15 các em hiếu động bột phát, thích bắt chước, thích làm người lớn, chưa phân biệt rõ ràng cái tốt, cái xấu. Cái xấu thì dễ nhiễm; cái tốt, lại khó học, khó tiếp thu, ở các em tính tự ái khá cao không muốn bị phê bình, thích khen hơn chê .Nên mỗi GVCN phải là người nhiệt tình, tâm huyết, khéo léo, công bằng trong đánh giá, gần gũi thương yêu HS, phải là người bạn tin cậy của các em. Thì việc giáo dục mới đem lại hiệu quả cao. Dựa vào thực tế HS lớp chủ nhiệm gồm có 30 em nằm rải rác ở các xã trong huyện. Và dựa vào tâm sinh lí lứa tuổi của các em, có những em mặc dù đã được học ở trường một thời gian dài nhưng vẫn chưa hoà nhập được với các bạn trong lớp như: Em Phạm Văn Tiến, Lê Quang Trường, Phạm Minh Nguyệt. 2. Thực trạng của công tác chủ nhiệm trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:. Trong tình hình thực tế hiện nay vẫn còn những quan niệm lệch lạc trong nhận thức về chức vụ, nhiệm vụ của GVCN lớp, chưa thấy rõ vai trò của mình trong việc giáo dục nhân cách của HS, có người lại quá lạm dụng quyền hạn của mình, quá khắt khe với HS dẫn đến những hành động thô bạo như: phạt bắt HS đứng ở góc bảng cả tiết học ... Ngược lại cũng có những GVCN lớp quá dễ dãi, thiếu trách nhiệm với lớp, giao việc nhưng lại không kiểm tra đôn đốc, xử lý khi HS vi phạm không đến nơi đến chốn theo kiểu “đánh trống bỏ dùi” dẫn đến tình trạng lớp mất nề nếp, việc HS thực hiện không tốt nề nếp sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập. Ghi chú: ở phần II mục 1 đoan: “Dựa trên việc học tập quốc sách hàng đầu” ; Đoạn: “ Để làm tốt. thực hiện bằng được” Tác giả tham khảo tài liệu tham khảo só 1. Trong nhiều năm qua công tác chủ nhiệm lớp ở trường PT Cấp 2 Dân Tộc Nội Trú rất được coi trọng đặc biệt là năm học 2016 – 2017. Với đặc thù của nhà trường, phần lớn là HS ở xa, các em ăn ở nội trú tại trường trong tháng chỉ về nhà một đến 2 lần nên phụ huynh ít lưu tâm đến việc con em mình học tập tu dưỡng, việc học tập sinh hoạt chủ yếu ở nhà trường. Vì vậy mỗi GVCN lớp cần thấy rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc giáo dục HS, đưa ra những biện pháp tích cực để giáo dục HS đem lại hiệu quả cao đáp ứng được mục tiêu đào tạo con em các dân tộc trong huyện nhà. Với riêng bản thân tôi được phân công chủ nhiệm các em HS lớp 6 từ khoá học 2014- 2018 khi các em mới vào lớp 6. chưa thạo tiếng phổ thông, lần đầu tiên đi học xa nhà chưa hình dung ra cuộc sống tập thể, chưa hoà nhập được khi ở nội trú, nhiều em chưa biết dọn vệ sinh phòng ở, chưa tự giác thực hiện nội quy quản sinh, không nhớ nội quy cờ đỏ, không có tinh thần và ý thức tự học, còn khóc vì xa bố mẹ, nhớ nhà Những thuận lợi và khó khăn mà tôi gặp phải trong công tác chủ nhiệm là: a. Thuận Lợi: Thuận lợi nhất cho mỗi GVCN là được nhà trường giao lớp chủ nhiệm cả bốn năm của một khóa học. Giáo viên sẽ dễ quản lý theo dõi nắm bắt tình hình HS, thu xếp để có thời gian đến nhà các em tìm hiểu hoàn cảnh của từng em, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em, từ đó GVCN lựa chọn phương pháp và cách tổ chức các hoạt động giáo dục cho phù hợp với HS lớp mình. Bên cạnh GVCN lớp còn có bố mẹ nuôi hỗ trợ giúp đỡ trong các hoạt động của lớp, đồng hành với GVCN tận tình, tận tâm với hoạt động của lớp, giành nhiều thời gian công sức để theo dõi uốn nắn kịp thời cho các em kể cả giờ ăn, ngủ, hoạt động vui chơi giảỉ trí sau mỗi giờ học. Giúp đỡ GVCN còn có các bậc phụ huynh nhiệt tình ủng hộ các phương pháp giáo dục của giáo viên tạo mọi điều kiện để giúp đỡ giáo viên hoàn thành nhiệm vụ. Hơn nữa trong nhà trường có đầy đủ các tổ chức đoàn thể như: Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên, có bộ phận quản sinh, nội vụ phối kết hợp chặt chẽ với GVCN, giúp đỡ và hỗ trợ cho GVCN trong việc quản lí học tập, vui chơi, giải trí, và giáo dục HS. b. Khó khăn: Thực tế học sinh trong xã hội ngày nay rất hiếu kỳ và thích được khẳng định mình. Các em luôn bày ra những trò nghịch ngợm và những biểu hiện thiếu ý thức, thiếu tinh thần trách nhiệm với bản thân, với tập thể... Nguyên nhân là do sự phát triển của xã hội. Đặc biệt là những phát triển đột biến của công nghệ thông tin đã tác động đến suy nghĩ cũng như tư tưởng, tình cảm của các em. Tuy nhiên HS thời nay có sự năng động, sáng tạo hơn. Nhưng điều đó cũng làm cho các bậc phu huynh và thầy cô giáo thêm lo lắng bởi tính hiếu kỳ, muốn tự khẳng định mình của các em . Về đặc tính tâm lí chung đa số các em là con em dân tộc thiểu số ít nói, chưa mạnh giạn trong giao tiếp. Đặc biệt là các em nữ, tình trạng HS ngại tham gia các buổi sinh hoạt tập thể, các em xem như đó là công việc không cần thiết, nhiều HS không thích vui chơi đoàn kết thân ái với các bạn trong lớp mà chỉ lên lớp tiếp thu kiến thức như một nghĩa vụ, rồi về phòng ở, chưa có sự hoà nhập đoàn kết với bạn bè xung quanh. Điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách của HS. Tất cả những biểu hiện trên của HS khiến GVCN lớp trăn trở, suy nghĩ để tìm giải pháp chăm sóc hỗ trợ tâm lí HS nữ người dân tộc thiểu số để giúp các em phát triển toàn diện về nhân cách, đạo đức và trí tuệ. [4]. Đối với giáo viên công tác tại trường Nội trú mỗi giáo viên chủ nhiệm phải “đi sớm về muộn”, sát sao với các hoạt động của lớp, phải thực sự là người cha, người mẹ mẫu mực, là cầu nối để tạo sự hợp tác tốt giữa nhà trường và phụ huynh HS. Đối với lớp tôi được phân công chủ nhiệm bước đầu mới nhận lớp tôi nhận thấy khả năng tư duy và nhận thức của các em về việc chấp hành nội quy học tập chưa cao. Vì vậy đòi hỏi GVCN phải khéo léo trong việc sử lí tình huống sư phạm để giáo dục học sinh nếu không sẽ rất dễ sảy ra tình trạng một số học sinh chống đối ngầm. Vì các em chưa có ý thức cao trong việc học tập, tu dưỡng. Cho nên năm học lớp 6 kết quả xếp loại chung về hạnh kiểm và học lực khi chưa áp dụng phương pháp giáo dục HS bằng kỉ luật tích cực kết quả của lớp tôi chủ nhiệm là: c. Kết quả của thực trạng (qua khảo sát): * Lớp 6B sĩ số 30 HS * Xếp loại hạnh kiểm: Hạnh kiểm yếu Hạnh kiểm TB Hạnh kiểm khá Hạnh kiểm tốt SL % SL % SL % SL % 0 0 01 3,3 7 23.4 22 73.3 * Xếp loại học lực Loại kém loại yếu loại TB loại khá loại giỏi SL % SL % SL % SL % SL % 0 0 02 6,7 19 63,3 08 26,7 01 3.3 3. Các giải pháp sử dụng để tiến hành giải quyết vấn đề . Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của năm học 2016 - 2017, thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục học sinh bằng kỷ luật tích cực. GVCN phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình là người gần gũi, thân thiện, biết quan tâm, chia sẻ, với HS đặc biệt không được xúc phạm và có những hành vi thô bạo trái với đạo đức sư phạm của người thầy. 3.1 Biện pháp1: GVCN xây dựng kế hoạch chủ nhiệm, điều tra tình hình học sinh để phân loại, chia nhóm học sinh trong lớp:. Vào đầu năm học giáo viên chủ nhiệm lớp tiến hành điều tra cơ bản về tình hình lớp, cụ thể điều tra về tình hình chất lượng học tập của HS, phân tích đánh giá tình hình đó. Cụ thể tìm hiểu các nội dung: .Ghi chú: ở mục 2 phần b: Khó khăn đoạn “Về đặc tính tâm lí chung đạo đức và trí tuệ”. Tác giả tham khảo tài liệu tham khảo số 4 + Về thái độ đối với việc học tập: xem xét HS có ham muốn học tập tốt không; tình cảm biểu hiện khi học tập như mong muốn ( đạt điểm cao ) hoặc khi không đạt yêu cầu, về xu hướng thực hiện các yêu cầu và chỉ dẫn của giáo viên ( hưởng ứng – không hưởng ứng – phản đối ). + Về sự phát triển trí lực: xem xét về sự chú ý, trí nhớ, tư duy, về kỹ năng nêu được các điểm chính trong bài học, về nhịp độ lĩnh hội các kiến thức, tính độc lập tư duy và việc vận dụng các kiến thức trong khi giải các bài tập ( đây chính là nội dung quan trọng nhất để biết HS đó hiểu bài đến đâu ). + Về các thói quen lao động học tập: Xem xét HS về mặt kỹ năng tổ chức hợp lý việc học tập ở ngoài giờ học trên lớp, có tự giác hay không việc tự học; về xu hướng khắc phục khó khăn trong học tập ( khi có bài khó có cố gắng hoàn thành hay không). + Về sự phát triển thể chất: Xem xét tình trạng sức khỏe và mức độ mệt mỏi của học sinh trong việc học tập. + Về ảnh hưởng giáo dục gia đình: tìm hiểu điều kiện hoàn cảnh của gia đình đối với việc xây dựng cho con em họ sự ham học; việc tạo ra những điều kiện tinh thần, vật chất thuận lợi cho việc học tập của con em; về ảnh hưởng của những người lớn trong gia đình nêu gương cho trẻ em. [3]. Dựa vào các vấn đề trên, giáo viên chủ nhiệm kết hợp với hướng dẫn nhà trường để xây dựng kế hoạch chủ nhiệm của lớp có cơ sở khoa học đạt hiệu quả. Cụ thể tôi đã xây dựng kế hoạch chủ nhiệm và điều tra kết quả xếp loại hạnh kiểm, học lực và sơ yếu lí lịch HS bằng bản sao tổng hợp như sau: Mẫu: Sơ yếu lý lịch học sinh - Họ và tên: - Ngày tháng năm sinh: - Nơi sinh: - Dân tộc: - Quê quán: - Chỗ ở hiện nay: - Hạnh kiểm: - Học lực: - Họ và tên cha: - Nghề nghiệp: - Họ và tên mẹ: - Nghề nghiệp: Kết quả: từ mẫu điều tra trên GVCN tổng hợp kết quả để căn cứ theo dõi, phân loại HS từ đó tôi đã hiểu về hoàn cảnh điều kiện và đặc điểm tâm lí từng học sinh đề có biện pháp giáo dục thích hợp. 3.2 Biện pháp 2: Lựa chọn bầu cán sự lớp gồm các bước cụ thể sau đây: a. Cơ sở lựa chọn GVCN căn cứ vào các loại hồ sơ: học bạ, giấy khai sinh và phiếu điều tra. Căn cứ vào sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ trong đại hội chi đội đầu năm học. Căn cứ vào sự theo dõi chặt chẽ của GVCN lớp. .Ghi chú: ở mục 3 phần 3.1 Biện pháp 1 đoạn: “Vào đầu năm học nêu gương cho trẻ em” tác giả tham khảo ở tài liệu tham khảo số 3. b. Cơ cấu cán sự lớp Cán bộ lớp Cán bộ tổ, Đội cờ đỏ - Lớp trưởng - Lớp phó học tập - Lớp phó văn thể - Lớp phó lao động - Lớp phó đời sống - Phòng trưởng - Tổ trưởng (mỗi tổ 1 tổ trưởng) - Cán sự bộ môn: Toán, Lý, Văn, Tiếng Anh (mỗi môn một cán sự) - Đội cờ đỏ (theo dõi nề nếp của liên Đội) gồm 2 em ) c. Phân công, nhiệm vụ cho cán bộ lớp Cán sự lớp đại diện cho lớp, chịu trách nhiệm trước GVCN về toàn bộ hoạt động của lớp, theo dõi, đôn đốc, báo cáo thường xuyên trong suốt thời gian học (Nhiệm kỳ 1 năm ). * Cán bộ lớp: - Lớp trưởng: + Là người theo dõi, đôn đốc phong trào chung của lớp, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể trong từng ngày cho các lớp phó dựa trên kế hoạch của đoàn, đội, quản sinh, lớp, nhà trường. + Chủ trì các cuộc họp, buổi sinh hoạt, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của lớp trong tuần . + Báo cáo những tồn tại cần khắc phục với GVCN kịp thời để tìm cách giải quyết ngay trong tuần tiếp theo. - Lớp phó học tập: + Theo dõi nề nếp học tập, có kế hoạch kiểm tra vở ghi, vở bài tập, chữa bài tập cho lớp, đọc báo đội vào giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ mỗi tuần 2 lần. + Báo cáo kết quả theo dõi các mặt hoạt động của lớp với lớp trưởng. - Lớp phó văn thể: + Tổ chức những giờ sinh hoạt 15 phút theo quy định của Đội, bắt cái cho lớp hát, theo dõi nề nếp lịch hoạt động trong tuần của đội để thực hiện. + Tiếp thu những bài hát mới của Đội theo chủ đề để tập cho lớp. - Lớp phó lao động: + Phân công, theo dõi đôn đốc các tổ làm vệ sinh khu vực vào mỗi buổi sáng, vệ sinh lớp học, về sịnh phòng ở hằng ngày, tiếp thu kế hoạch lao động của nhà trường, GVCN và quản sịnh để cho lớp thực hiện hàng tuần. + Cùng với GVCN chỉ đạo quán xuyến tốt các buổi lao động do nhà trường đoàn đội phân công. + Theo dõi đôn đốc các tổ làm vệ sinh sạch sẽ nhà ăn hàng tuần. - Lớp phó đời sống: + Cùng với giáo viên chủ nhiệm theo dõi báo, cắt cơm với trưởng bếp hàng ngày, hàng tuần cho các thành viên trong lớp. + Chỉ đạo và cùng các tổ lấy khẩu phần ăn sáng hàng ngày trong tuần. - Phòng trưởng: + Chịu trách nhiệm trước giáo viên chủ nhiệm lớp về nề nếp, học tập tu dưỡng của phòng mình. + Giao nhiệm vụ cho các thành viên trong phòng thực hiện nội vệ quy vệ sinh phòng ở của nội vụ nhà trường. + Báo cáo tình hình chấp hành nội quy của phòng với giáo viên chủ nhiệm để có hướng giải quyết kịp thời. * Cán bộ tổ: - Tổ trưởng: + Phân công tổ viên làm vệ sinh lớp học hàng tuần . + Theo dõi nề nếp của tổ hàng tuần một cách công bằng trung thực theo mẫu quy định của giáo viên chủ nhiệm. - Cán sự bộ môn + Có nhiệm vụ kiểm tra vở bài tập, chữa bài tập của môn mình phụ trách cùng với lớp phó học tập. + Có kế hoạch kèm cặp những bạn mà môn mình phụ trách còn yếu kém. - Đội cờ đỏ: + Theo dõi sinh hoạt 15 phút, tiết sinh hoạt dưới cờ đầu tuần và thể dục giữa giờ theo phân công chéo của tổ chức Đội. + Có trách nhiệm báo cáo lớp trưởng, giáo viên chủ nhiệm những kế hoạch của Đội và những tồn tại của lớp cần được khắc phục trong từng tuần. * Yêu cầu chung đối với cán bộ lớp: Phải chăm học, gương mẫu xứng đáng là tấm gương để các bạn noi theo. d. Chia tổ phân công chỗ ngồi. - Chia đều sĩ số lớp thành 3 tổ - Mỗi tổ ngồi 3 dãy bàn theo chiều ngang (3 học sinh/bàn) - Tổ trưởng ngồi từ bàn cuối để tiện theo dõi những bạn vi phạm nội quy trong tổ mình . - Khi phân công chỗ ngồi cần theo dõi, điều chỉnh phù hợp để giảm bớt tình trạng nói chuyện riêng (ưu tiên những HS mắt kém, thấp bé hơn các bạn ngồi ở trên ). Thời gian 1 tháng GVCN thay đổi chỗ ngồi 1 lần, đảo vị trí để HS không bị ảnh hưởng đến thị giác.
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_trong_cong_tac_chu_nhiem_thong_qua_bie.doc