SKKN Một số giải pháp nâng cao ý thức tự giác trong cán bộ giáo viên, nhân viên trường THCS Yên Trường

SKKN Một số giải pháp nâng cao ý thức tự giác trong cán bộ giáo viên, nhân viên trường THCS Yên Trường

Chúng ta đang sống trong những năm cuối cùng thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI. Đất nước Việt Nam chúng ta nói riêng và thế giới nói chung đang có những bước phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, cả về kinh tế, chính trị, xã hội đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong đó phải kể đến sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục.

 Thực tế cho thấy, giáo dục Việt Nam đang tiếp cận được với xu thế giáo duc toàn cầu một cách tích cực. Điều đó được chứng minh bằng hệ thống các trường học trên toàn quốc với nhiều cấp học khác nhau đã được đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo, nhằm mục đích thúc đẩy và nâng cao chất lượng giáo dục một cách đồng bộ và toàn diện nhất.

 Trong những năm gần đây, ở các nhà trường phổ thông đã thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đặc biệt là Nghị quyết TW số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới đồng bộ các yếu tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục. Chính vì thế, chất lượng học sinh, hay nói cách khác là sản phẩm của giáo dục đã và đang tiếp cận được với nền giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới.

 Để thực sự đổi mới được giáo dục, ngoài việc quan tâm đến đối tượng người học (học sinh, sinh viên), chúng ta cần phải chú trọng đến sự phát triển đội ngũ nhà giáo, một lực lượng lao động vô cùng đông đảo trên cả nước. Ở mỗi cấp học, nhiệm vụ của nhà giáo có những điểm khác nhau, nhưng dù ở cấp học nào giáo dục cũng đòi hỏi một đội ngũ có trình độ và năng lực toàn diện, là công dân gương mẫu, có ý thức trách nhiệm với xã hội, hăng hái tham gia, góp phần vào mọi sự phát triển của cộng đồng, là linh hồn của quá trình hình thành bầu không khí dân chủ trong lớp học, trong nhà trường, có lòng yêu trẻ và có khả năng tương tác với trẻ trong tất cả các hoạt động.

 

doc 17 trang thuychi01 6401
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp nâng cao ý thức tự giác trong cán bộ giáo viên, nhân viên trường THCS Yên Trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN ĐỊNH
TRƯỜNG THCS YÊN TRƯỜNG 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC TỰ GIÁC TRONG CÁN BỘ GIÁO VIÊN, NHÂN VIÊN TRƯỜNG THCS YÊN TRƯỜNG
 Người thực hiện: Lê Thị Sâm
 Chức vụ: Hiệu trưởng
 Đơn vị công tác: Trường THCS Yên Trường
 SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý
YÊN ĐỊNH, NĂM 2019
MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
1
I. MỞ ĐẦU
01-04
2
1. Lý do chọn đề tài 
01
3
2. Mục đích nghiên cứu
02
4
3. Đối tượng nghiên cứu 
03
5
4. Phương pháp nghiên cứu
04
6
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
04-12
7
1. Cơ sở lý luận
 04
8
2. Thực trạng
 05
9
3. Các giải pháp
06-11
10
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
12
11
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
13-14
12
1. Kết luận
13
13
2. Kiến nghị
14
14
Tài liệu tham khảo
15
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Chúng ta đang sống trong những năm cuối cùng thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI. Đất nước Việt Nam chúng ta nói riêng và thế giới nói chung đang có những bước phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, cả về kinh tế, chính trị, xã hộiđặc biệt là sự phát triển như vũ bão của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong đó phải kể đến sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục.
	Thực tế cho thấy, giáo dục Việt Nam đang tiếp cận được với xu thế giáo duc toàn cầu một cách tích cực. Điều đó được chứng minh bằng hệ thống các trường học trên toàn quốc với nhiều cấp học khác nhau đã được đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo, nhằm mục đích thúc đẩy và nâng cao chất lượng giáo dục một cách đồng bộ và toàn diện nhất.
	Trong những năm gần đây, ở các nhà trường phổ thông đã thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đặc biệt là Nghị quyết TW số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới đồng bộ các yếu tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục. Chính vì thế, chất lượng học sinh, hay nói cách khác là sản phẩm của giáo dục đã và đang tiếp cận được với nền giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới.
	Để thực sự đổi mới được giáo dục, ngoài việc quan tâm đến đối tượng người học (học sinh, sinh viên), chúng ta cần phải chú trọng đến sự phát triển đội ngũ nhà giáo, một lực lượng lao động vô cùng đông đảo trên cả nước. Ở mỗi cấp học, nhiệm vụ của nhà giáo có những điểm khác nhau, nhưng dù ở cấp học nào giáo dục cũng đòi hỏi một đội ngũ có trình độ và năng lực toàn diện, là công dân gương mẫu, có ý thức trách nhiệm với xã hội, hăng hái tham gia, góp phần vào mọi sự phát triển của cộng đồng, là linh hồn của quá trình hình thành bầu không khí dân chủ trong lớp học, trong nhà trường, có lòng yêu trẻ và có khả năng tương tác với trẻ trong tất cả các hoạt động.
	 Để hình thành được những năng lực, phẩm chất quý giá đó, ngoài tính chủ quan, nội lực bản thân mà mỗi cá nhân giáo viên tự rèn luyện phấn đấu, cần thiết phải có thêm một môi trường tích cực để các nhà giáo được thể hiện năng lực của mình. Đó chính là môi trường làm việc, hay nói cách khác là môi trường giáo dục ở mỗi nhà trường, do chính người đứng đầu hình thành nên. 
	Bản thân là một quản lý, với vai trò là hiệu trưởng của một trường THCS, tôi luôn cố gắng tạo nên một môi trường công tác an toàn, thân thiện, tích cực, trí tuệ để giáo viên được có cơ hội tự hoàn thiện mình, từ nhân cách đạo đức, lối sống cho đến việc không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy tính chủ động, độc lập, sáng tạo, từ đó thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao, có nhiều tác động hiệu quả mà nhẹ nhàng nhất tới học trò của mình.
	Để làm được điều đó, trước tiên phải phát huy được tính tích cực, tự giác trong cán bộ, giáo viên,nhân viên của nhà trường. Đây là một yêu cầu nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cũng không hề dễ dàng chút nào đối với người quản lý. Chúng ta đừng nghĩ rằng, khi cách mạng công nghệ 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, chúng ta có thể quản lý giáo viên, nhân viên của mình một cách đơn giản qua hệ thống Camera, qua những thiết bị máy móchiện đại, thông minh. Nếu thực sự chỉ quản lý bằng cách đó, là chúng ta đang giám sát những cỗ máy hoặc những chú Rô bốt và điều khiển họ vận hành theo ý mình một cách thụ động, là đang thủ tiêu mọi sự sáng tạo. Trong bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới”, tác giả Vũ Khoan đã khẳng đinh: “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì điều quan trọng nhất là chuẩn bị bản thân con người”. Điều đó chứng tỏ rằng, quản lý con người, thấu hiểu và thúc đẩy được nội lực bản thân con người là điều không hề đơn giản.
	Trong thời gian làm công tác quản lý với cương vị là hiệu trưởng nhà trường chưa lâu (3 năm), tôi luôn có ý thức học hỏi, tìm hiểu, tham khảo cách quản lý của không ít các đồng chí hiệu trường tiền bối, những hiệu trưởng giỏi ở nhiều trường bạn, thậm chí một số hiệu trưởng có bề dày ở khu vực thành phố Thanh Hóa. Từ đó bản thân tôi cũng có nhiều trăn trở, suy nghĩ khi chứng kiến những lúc các đồng chí hiệu trưởng đi công tác, không có mặt ở trường, thường xuyên phải mở điện thoại xem Camera để giám sát các hoạt động ở trường, trong đó cả giám sát giáo viên của mình. Nhiều đồng chí đã phải gọi điện gấp về trường khi thấy giáo viên làm việc riêng trong khi làm nhiệm vụ, thậm chí trong giờ dạy trên lớp, rồi lên lớp chậm chạpvà vô số những vấn đề mà người làm công tác quản lý phải chấn chỉnh khi BGH vắng mặt.
	Vậy cách quản lý như vậy có mang lại hiệu quả không? Và những điều mà chúng ta nhìn thấy qua Camera là thực tế nhưng có phải lúc nào bản chất sự việc cũng đúng như hiện tượng phản ánh qua hình ảnh không? Tại sao không phát huy tính tích cực, tự giác của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường mọi lúc, mọi nơi, làm sao đó để mọi người cảm nhận được công việc ở trường là của chính mình, do mình chủ động làm chủ, không ai giám sát mình tốt hơn chính lương tâm và trách nhiệm của bản thân. Khi cán bộ giáo viên, nhân viên trong nhà trường chưa thực sự tự giác tích cực, còn làm việc theo kiểu đối phó “điểm danh, điểm mặt”, “tối ngày đầy công” thì chắc chắn chất lượng giáo dục sẽ không được như mong muốn; và càng tệ hại hơn nữa, những hành động, việc làm ấy sẽ hình thành nên thói quen, lâu dần hình thành tính cách xấu.
	Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của giáo dục Việt Nam: Đổi mới căn bản, toàn diệnĐây thực chất là một cuộc cải cách sâu rộng, hướng tới mô hình mới trong xu thế hội nhập, nhằm đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất, giúp người học chủ động tích cực hội nhập quốc tế. Muốn vậy, trước tiên những người làm công tác quản lý phải khơi dậy được tính tư giác trong cán bộ, giáo viên, nhân viên của đơn vị mình. Nhận thực được điều đó, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp nâng cao ý thức tự giác trong cán bộ giáo viên, nhân viên trường THCS Yên Trường.
2. Mục đích nghiên cứu:
Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tôi đã có rất nhiều trăn trở và suy nghĩ cùng với sự trải nghiệm bằng thực tế của chính bản thân mình trong những năm gần đây. Mong muốn của tôi là góp một tiếng nói, một cách nhìn nhỏ bé vào việc thay đổi nhận thức, suy nghĩ, hành động của một bộ phận công chức, viên chức, nhân viêntrong biên chế, tránh tình trạng làm việc theo kiểu “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”, đến cơ quan làm việc qua loa chờ cuối tháng lĩnh lương Nhà nước. Hơn thế nữa, mong muốn và mục đích khi nghiên cứu đề tài này chính là tìm ra mọi biện pháp tối ưu nhất nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên trong nhà trường trở thành những con người tự làm chủ mọi công việc, tích cực, tự giác từ trong suy nghĩ đến hành động; sống có trách nhiệm đối với chính bản thân mình và với công việc, tạo nên được những sản phẩm là lực lượng lao động có chất lượng nhất cho đất nước, đáp ứng mọi nhu cầu về sử dụng nhân lực của xã hội hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Với khuôn khổ là một đề tài được đúc kết từ những kinh nghiệm nho nhỏ của bản thân, cho nên tôi sẽ nghiên cứu, đánh giá, tổng kết về vấn đề: Phát huy tính tích cực, tự giác trong cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường. Việc làm của tôi sẽ bắt đầu từ sự quan sát, đánh giá những hoạt động của từng đồng chí trong đơn vị mình, sau đó định hướng và hình thành phương pháp quản lý phù hợp nhất, khả thi nhất để đạt hiệu quả cao nhất trong việc phát huy tính tích cực, tự giác trong mỗi thành viên.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, bản thân tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có một số phương pháp nổi bật như sau:
- Thứ nhất là khâu xây dựng cơ sở lý thuyết: Phương pháp này xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn giáo dục hiện nay, đó là những nhiệm vụ bắt buộc đặt ra đối với người làm công tác giáo dục trong các nhà trường phổ thông: Sống tích cực, chủ động, có kỹ năng, có năng lực và trình độ.
- Thứ hai là phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Đây là một phương pháp vô cùng quan trọng, bởi không vận dụng phương pháp này chắc chắn không thể có cái nhìn chính xác, khách quan về đối tượng nghiên cứu. Cũng vì vận dụng tốt phương pháp điều tra, khảo sát thực tế mà bản thân tôi đã rút ra cho mình được nhiều bài học trong việc quản lý nhân viên của mình một cách hiệu quả.
- Thứ ba là phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Đây là phương pháp được vận dụng để đưa ra những con số, những dẫn chứng cụ thể liên qua tới đề tài nghiên cứu. Phương pháp này cần có sự so sánh, đối chiếu giữa hai thời điểm: Khi chưa vận dụng và sau khi vận dụng các biện pháp giúp quản lý tốt cán bộ giáo viên, nhân viên trong nhà trường. Từ đó thấy được điểm mới và hiệu quả của việc thay đổi cách quản lý của mình.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của đề tài:
Tác giả Bùi Trung Hải, Nguyễn Lê Đình Quý cho rằng: Giáo dục là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 nhanh hơn cả, bởi chính giáo dục cũng sẽ tạo ra những phiên bản mới của các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo. Điều đó có nghĩa là những người làm giáo dục, đặc biệt là đội ngũ nhà giáo cùng với cán bộ, nhân viên trong nhà trường sẽ góp một phần không nhỏ vào việc đào tạo ra những chủ nhân của các cuộc cách mạng sau này. Vì thế, những người làm giáo dục trước hết phải là những con người có tính tích cực, tự giác trong công việc. Sống và làm việc không đối phó, không ỷ lại, không thể theo xu hướng đám đông và “dậu đổ bìm leo”. Chúng ta cần phải xác định được vai trò , vị trí của mình trong xã hội; định hướng đúng đắn mục tiêu, công việc của mình mà hướng tới.
	Sinh thời, Bác Hồ kính yêu của chúng ta cũng đã từng xác định: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Bác mở đầu thông điệp bằng cụm từ “lợi ích” với hàm ý như một lời nhắc nhở những người làm công tác giáo dục cần có tư duy và tầm nhìn.
	Với tầm nhìn chính trị sắc bén về giáo dục, Người tiên liệu các thách thức đặt ra cho nền giáo dục cách mạng khi nhiệm vụ tổ chức việc học hành không chỉ cho một bộ phận người dân mà phải là của toàn dân. Hiện nay nước ta đang trên con đường hội nhập sâu với thế giới, trước bối cảnh toàn cầu hóa thì ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh lại càng cần thiết phải được soi rọi vào con đường đi của giáo dục. Trong hệ tư tưởng tiến bộ đó phải kể đến tính tích cực, tự giác trong cuộc sống, trong làm việc của Bác Hồ kính yêu. Chính Bác đã truyền tâm ý của mình cho đội ngũ những người làm giáo dục về đức tính, phẩm chất đáng quý này.
	 Đối với người làm công tác quản lý trong giáo dục thì ảnh hưởng của tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh lại càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết, bởi “văn hóa quản lí Hồ Chí Minh là sự cộng hưởng nhân văn lí tưởng quản lí cùng hành động quản lí và sự vận dụng một cách sáng tạo vào nhà trường”. Người làm công tác quản lý muốn phát huy được khả năng, sức mạnh của đối tượng mình quản lý cần phải thực hiện văn hóa quản lý. Nói đến văn hóa quản lý là nói đến nét đẹp trong lý tưởng quản lý và hành động quản lý đạt đến các mục tiêu nhân văn và hiệu quả đích thực. Quản lý học hiện đại ngày nay thường đề cập kiểu quản lý kết hợp hài hòa giữa “Đức trị” và “Pháp trị”, nghĩa là người làm quản lý phải khêu gợi được lương tâm, thúc đẩy được lương năng và phát triển được lương tri của con người, nhất là đối với ý thúc tự chủ, tự giác trong công việc thì điều này lại càng nên được vận dụng.
Bác Hồ đã từng dạy: “Mỗi con người có cái thiện, cái ác ở trong lòng, ta phải làm sao cho phần tốt ở trong mỗi con người ấy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi” (Hồ Chí Minnh toàn tập – Tập 12 trang 558). Và cũng theo Bác kính yêu, người quản lý muốn làm tốt công việc của mình cần có hai nhiệm vụ chủ yếu đó là “tu thân” và “xử thế”. Tu thân ở đây chính là sự tự quản lý và xử thế là tác động đến các mối quan hệ giữa người với người trong quá trình quản lý. Trong hai nhiệm vụ ấy thì tu thân là do chúng ta chủ động, còn xử thế phải được tạo ra trong mối quan hệ với những người khác, cho nên xử thế thực sự khó khăn, bởi cuộc sống vận động không ngừng, ngày hôm nay phức tạp hơn ngày hôm qua, ngày mai nảy sinh nhiều vấn đề rắc rối hơn hôm nay bởi do quan hệ người với người rất đa dạng. Chúng ta nhận thấy xung quanh người quản lý luôn có 5 nhân vật đó là: đối thủ, đối tác, đồng minh, đồng chí, tri âm (tâm giao). Kể cả trong môi trường giáo dục với phạm vi một nhà trường cũng luôn tồn tại 5 nhân vật này. Vậy nên đòi hỏi người quản lý phải có sự tỉnh táo và khéo léo biến đối thủ thành đối tác, đưa đối tác thành đồng minh, kéo đồng minh thành đồng chí và từ đồng chí trở thành tâm giao theo phương châm “sống khôn ngoan, sống bao dung, sống tử tế, sống hẳn hoi”. Chính cách quản lý được soi rọi bởi tư tưởng Hồ Chí Minh này đã làm cho ranh giới giữa người quản lý và người được quản lý thu hẹp lại, gần gũi, thân tình hơn; vì thế mà nâng cao được ý thức tự giác, tự chủ ở người được quản lý, dẫn đến mọi người cùng làm việc hào hứng và nỗ lực hơn, chất lượng công việc tốt hơn. Người được quản lý sẽ nhận thức được khi đứng trước việc sai, việc xấu sẽ không dám làm, không nỡ làm và không thể làm. Còn khi đứng trước việc đúng, việc tốt thì tự giác làm, tự nguyện làm, tự tin làm. Để đạt được điều đó, người quản lý cần phải biết phối hợp cả đạo lý, pháp lý và công lý tác động đến con người để thực hiện mục tiêu của mình giống như tư tưởng Hồ Chí Minh. Như vậy người quản lý chính là người đi thức tỉnh tâm hồn con người chứ không phải là người luôn giám sát, theo dõi để ghi ghi chép chép rồi nhận xét, đánh giá, xử phạt, xếp loạibằng những con số cứng nhắc.
2. Thực trạng của về vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
 Trong những năm trước đây, bản thân tôi may mắn cũng đã từng là giáo viên giảng dạy tại ngôi trường mà mình đang làm quản lý – trường THCS Yên Trường. Theo cảm nhận đánh giá của riêng tôi và chắc chắn đó cũng là thực tế: các đồng chí giáo viên trong nhà trường phần đông đều có năng lực, trình độ chuyên môn tốt, nhiều đồng chí còn được đánh giá ở mức xuất sắc. Song bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên năng lực chuyên môn chưa tốt, khả năng hoạt động trong các lĩnh vực sư phạm khác như: công tác chủ nhiệm, hướng dẫn hoạt động tập thể, trải nghiệm giúp học sinh hình thành các kỹ năng mềmlại ở vào mức chưa đạt, không có sức thu hút và tương tác được với phụ huynh và học sinh. Yêu cầu của nghề dạy học và người làm nghề dạy học phải đảm bảo cả trình độ chuyên môn vững vàng và năng lực cá nhân toàn diện, hầu hết các nước trên thế giới tuyển chọn giáo viên rất ngặt nghèo theo tiêu chí này. Song đối với Việt Nam thì đang tồn tại một thực tế nghiệt ngã đáng buồn: “Người nào không đủ năng lực và trình độ làm việc ở các lĩnh vực, ngành nghề khác thì lại có thể trụ vững trên bục giảng, nhất là ở những trường phổ thông”. Vậy cùng làm việc, chung sống trong một môi trường song song hai đối tượng như thế sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề, nhất là việc phát huy tính tích cực, tự giác ở mỗi người là vô cùng khó khăn.
	Với đối tượng thứ nhất, những người có đủ năng lực, đôi lúc vẫn có suy nghĩ chỉ cần hoàn thành nhiệm vụ được giao, hoặc chẳng cần gì phải nỗ lực, bở suy nghĩ và tư tưởng của họ luôn có sự ngầm so sánh với nhóm đối tượng thứ hai, tức chỉ cần hơn một chút là được. Bởi do đặc thù của công việc dạy học, sản phẩm của người lao động không nhìn thấy được ngay và nếu có sai sót thì sự nguy hại đó chưa gây hậu quả tức thì như các ngành công nghiệp hay nguy hiểm đến tính mạng như trong ngành y Bên cạnh đó sự chênh lệch về khả năng đóng góp, khả năng hoạt động và hiệu quả công việc giữa người này và người kia trong nhà trường còn chưa được khích lệ bằng khen thưởng hay chế độ tiền lương. Với nhà giáo cứ sống lâu sẽ lên lão làng; một người trẻ tuổi, ít năm công tác có giỏi đến bao nhiêu, thành tích đóng góp có nhiều đến mức nào thì đồng lương nhận lại cũng không thể bằng một người yếu về chuyên môn, kém về kỹ năng, ý thức đóng góp cho tập thể tồi mà có thâm niên công tác nhiều năm, và họ chẳng cần phải cố gắng gì vẫn ung dung hưởng đủ lương và tăng lương thường xuyên đều đặn không thiếu một đồng. Thành ra từ những suy nghĩ đó mà năng lực của những người có năng lực chưa được khai thác và khó phát huy. Cứ như thế lẽ hiển nhiên ngay trong môi trường rất cần chất xám thì lại tồn tại tình trạng lãng phí chất xám một cách vô lý.
	Với đối tượng thứ hai, họ luôn có suy nghĩ, đã trở thành “người nhà nước” rồi thì chỗ đứng đó mãi mãi là của họ, chả ai “đuổi đi được”, không ai có quyền sa thải hay cắt lương khi họ lên lớp đúng giờ, dạy đủ tiết, in hồ sơ giáo án đầy đủ mỗi khi kiểm travà điểm số,chất lượng của học sinh cũng do chính những người này tự dạy, tự chấm, tự tổng kết theo kiểu “của nhà làm ra”, nên bao giờ cũng đạt chỉ tiêu, yêu cầu. Còn việc tăng lương thì cứ yên tâm “đến hẹn lại lên” theo đúng chu kỳ. Những người này một số thì an phận, thiếu cố gắng; tệ hại hơn một số lại ngộ nhận, ảo tưởng sức mạnh, không nhận ra sự kém cỏi của mình, thành ra cả hai kiểu của đối tượng đều không tích cực, thiếu tự giác trong mọi hoạt động. Thực tế bản chất việc làm và những kết quả của họ chỉ có hiệu trưởng là người trực tiếp nhìn thấy rõ nhất nhưng khó lòng thay đổi khi các con số, chỉ tiêu, ngày cônghọ vẫn ở mức đảm bảo. Chính tình trạng yên vị chỗ ngồi biên chế cùng với đặc thù của ngành giáo dục đó là việc đào tạo ra sản phẩm là cả một quá trình, khá trừu tượng và không phải ai cũng có khả năng đánh giá đúng đã và đang hình thành nên một bộ phận giáo viên, nhân viên chây ỳ, thiếu tích cực, thiếu tự giác trong mọi hoạt động. Đó là một thực trạng vô cùng nguy hiểm, một bức tranh buồn của giáo dục.
	Hiện tại, công tác quản lý ở các nhà trường đã có bước đột phá mới phù hợp với thời đại, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hầu như trường nào cũng được trang bị hệ thống Camera, mọi hoạt động của giáo viên, nhân viên và học sinh đều được phản ánh trung thực chỉ cần qua hệ thống kết nối. Dù hiệu trưởng có “vắng nhà” cũng không để tình trạng “gà mọc đuôi tôm”. Nhưng có phải khi được gắn trang thiết bị hiện đại thì công việc quản lý của hiệu trưởng sẽ nhàn hơn? Giáo viên và nhân viên sẽ “sợ” hiệu trưởng mà làm việc tích cực, tự giác hơn??? Trên thực tế không hoàn toàn như vậy. Việc quản lý và giám sát bằng các thiết bị hiện đại chúng ta chỉ quản lý được phần “xác” của con người, còn phần “hồn” thì không thể. Và những con người mẫn cán, họ sẽ không có hứng thú làm việc khi mà người quản lý chỉ biết áp dụng việc điểm danh ngày nối ngày, tháng nối tháng, năm nối năm theo kiểu “tối ngày đày công”, không có sự tương tác tích cực trong quá trình làm việc. Điều này tôi đã đề cập đến ở phần lý do chọn đề tài. 
	Xuất phát từ thực trạng đó nên từ khi giữ cương vị hiệu trưởng, tôi đã không ngừng học hỏi, trau dồi để có thể tìm ra những giải pháp quản lý tốt nhất nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của cán bộ giáo viên, nhân viên trong đơn vị, góp một phần nhỏ vào việc xây dựng, phát triển và đổi mới nền giáo dục nước nhà. Và sau đây là những giải pháp mà tôi đã thực hiện để ho

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_y_thuc_tu_giac_trong_can_bo_g.doc