SKKN Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 7 trường THCS Lâm Xa
Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ cấp thiết trong trường THCS nói chung và trường THCS Lâm Xa nói riêng, hạn chế được những học sinh yếu về mặt đạo đức góp phần vào nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Thế nhưng trong thực tế trong các trường THCS hiện nay là một bộ phận nhỏ học sinh cá biệt (HSCB) dường như trường nào cũng có, lớp nào cũng có con số đó không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn, thậm trí là có thể đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường. Đó là mối chăn trở của tất cả các bậc thầy cô trong toàn trường và của toàn xã hội.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo hiện đang được toàn Đảng toàn dân quan tâm. Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Như Bác Hồ đã dạy “ Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng”.[1] Do đó việc giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là HSCB trong các nhà trường là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình HSCB. Vấn đề này đã trở thành mối ngại của dư luận, nhất là với gia đình và nhà trường.
I. MỞ ĐẦU Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ cấp thiết trong trường THCS nói chung và trường THCS Lâm Xa nói riêng, hạn chế được những học sinh yếu về mặt đạo đức góp phần vào nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Thế nhưng trong thực tế trong các trường THCS hiện nay là một bộ phận nhỏ học sinh cá biệt (HSCB) dường như trường nào cũng có, lớp nào cũng có con số đó không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn, thậm trí là có thể đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường. Đó là mối chăn trở của tất cả các bậc thầy cô trong toàn trường và của toàn xã hội. Sự nghiệp giáo dục đào tạo hiện đang được toàn Đảng toàn dân quan tâm. Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Như Bác Hồ đã dạy “ Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng”..[1] Do đó việc giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là HSCB trong các nhà trường là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình HSCB. Vấn đề này đã trở thành mối ngại của dư luận, nhất là với gia đình và nhà trường. Sau nhiều năm công tác làm chủ nhiệm lớp và quan sát một cách có hệ thống về HSCB ở THCS Lâm Xa bản thân tôi gặp không ít đối tượng HSCB mỗi em một vẻ, một cá biệt khác nhau nên gặp khó khăn trong giáo dục. Qua tìm tòi học hỏi đồng nghiệp tham khảo giáo dục qua các tạp chí, tuyên truyền vận dụng vào quá trình công tác chủ nhiệm. Bản thân tôi cũng rút ra một số kinh nghiệm mong muốn góp phần nho nhỏ của mình để giáo dục HSCB nhằm nâng cao giáo dục chất lượng hiện nay. Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế nào để cảm hóa và giáo dục HSCB có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của các nhà trường nói chung. 1.1. Lí do chọn đề tài. Giáo viên chủ nhiệm có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng sống cơ bản. Ngoài việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh xuyên suốt 6 buổi/ tuần, giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải thường xuyên theo dõi các hoạt động trong giờ chơi, trong các buổi sinh hoạt, giao lưu tập thể,và cả hoạt động học tập ở nhà của học sinh. Vì vậy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp là rất nặng nề, rất vất vả và vô cùng phức tạp. Ở đầu mỗi năm học, ở cùng một trường học, cùng một khối lớp, chất lượng học tập của học sinh cũng tương đương nhau. Nhưng tại sao đến cuối năm, chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh lớp này lại vượt trội hẳn so với các lớp khác; sĩ số của lớp này duy trì 100% lại không có học sinh cá biệt nhưng ở những lớp khác lại có tới 2, 3 học sinh bỏ học, lại 2 đến 3 em cá biệt thậm chí có em đang ở nhà nhưng vẫn không thể vận động đi học trở lại được. Giáo viên chủ nhiệm nào có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm với học sinh của mình thì chắc chắn sẽ tìm ra được các biện pháp để thu hút học sinh đến lớp, đến trường làm cho học sinh trở nên chăm ngoan, thích đi học và luôn cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Trong thực tế, không phải giáo viên nào cũng theo học sinh của mình từ lớp này lên lớp khác. Vì vậy, mỗi năm lên lớp, các em lại được học với một thầy (cô) khác nhau. Nếu giáo viên lớp dưới làm tốt công tác chủ nhiệm, xây dựng tốt nề nếp lớp học, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học và nhiều kĩ năng sống cơ bản khác; nhưng lên lớp trên, giáo viên chủ nhiệm lớp không duy trì, không phát huy thì rồi nề nếp lớp học và chất lượng học tập của học sinh sẽ ra sao? Do vậy, công tác chủ nhiệm lớp phải được thực hiện đồng bộ . Nề nếp lớp học, phương pháp học tập, đạo đức, nhân cách và các kĩ năng sống của học sinh phải được giáo viên chủ nhiệm chú ý xây dựng, rèn rủa ngay từ đầu năm học. Bản thân tôi đã liên tục nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp. Có năm công tác chủ nhiệm của tôi rất nhẹ nhàng vì giáo viên lớp trước đã làm tốt công tác chủ nhiệm của mình. Nhưng cũng có năm, tôi rất vất vả với công tác chủ nhiệm đầu năm. Tôi phải xây dựng lại từ đầu nề nếp lớp học, hướng dẫn học sinh từ cách nhỏ nhất bao bìa dán nhãn, cách trình bày trong vở, cách làm vệ sinh lớp, đề ra các nội qui của lớp,và phải thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn những sai sót của học sinh nên có lúc rất căng thẳng, mệt nhọc. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên chủ nhiệm lớp phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vất vả. Vì vậy, tôi khẳng định rằng công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp là cực kì quan trọng, là nhân tố số một quyết định chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Liên tục 4 năm qua, lớp tôi chủ nhiệm luôn duy trì sĩ số 100%, chất lượng học tập cũng như hạnh kiểm của học sinh luôn dẫn đầu trong khối và trong toàn trường. Vậy, làm sao để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả đặc biệt là khối lớp 7 – khối lớp mới bước lên cấp THCS mới được một năm có nhiều thay đổi trong tâm sinh lí lứa tuổi, vì vậy khi chúng ta nắm bắt tâm sinh lí, hoàn cảnh của các em sẽ có kế hoạch điều chỉnh hợp lí và kịp thời ngay từ đầu. Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, Đó là lí do tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 7 trường THCS Lâm Xa”, vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh của mình trở thành những con người tốt có ích cho xã hội. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Với lương tâm trách nhiệm của người thầy, Tôi không thể thờ ơ trước tình trạng xuống cấp về đạo đức của học sinh. Mục đích của tôi chọn đề tài Giáo dục học sinh cá biệt nhằm nghiên cứu, tìm ra giải pháp tối ưu nhằm giúp việc giáo dục đạo đức cho học sinh ngày một tốt hơn, hoàn thiện hơn. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Với thời gian nghiên cứu và làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong một năm học nên việc nghiên cứu, khảo sát để tìm ra các giải pháp giáo dục HSCB dùng tình cảm để cảm hóa,tạo niềm tin cho hoc sinh làm mới tiết dạy của mình,tác động vào động cơ học tập động viên kịp thời phối hợp với các tổ chức trong và ngoài trường đổi mới các hoạt động tập thể trên nhiều đối tượng học sinh gặp nhiều khó khăn, nên tôi chú trọng đặc biệt tới học sinh cá biệt là học sinh cá biệt lớp 7 do tôi chủ nhiệm. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp khảo sát điều tra thực tế. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp thống kê và xử lý số liệu khảo sát. - Phương pháp phân tích, tổng hợp và nhận xét.[2] 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm: Qua hai năm nghiên cứu và thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình, tôi đã đạt giải B cấp huyện năm 2014-2015 và gặt hái được thành quả đáng khích lệ. Bản thân tôi tiếp tục nghiên cứu và bổ sung thêm các giải pháp để giáo dục đạo đức cho HSCB được tốt hơn. Cụ thể ở năm học 2016-2017 tôi được giao nhiệm vụ là giáo viên chủ nhiệm lớp 7 qua quá trình tìm hiểu nắm bắt hoàn cảnh học sinh của lớp. Tôi nhận thấy so với nội dung tôi đẫ nghiên cứu trước đây cần bổ sung 1 số giải pháp nữa. đó là giải pháp thứ 5 đổi mới các hoạt động tập thể để thu hút học sinh đến lớp đến trường. Qua sáng kiến kinh nghiệm này, tôi rút ra được bài học kinh nghiệm sau: Muốn giáo dục học sinh có hiệu quả: Người thầy phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Phải thực sự thương yêu và tôn trọng nhân cách của học sinh. Phải xây dựng được mối quan hệ giữa thầy và trò thật trong sáng. Phải kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố giáo dục: “ Nhà trường – Gia đình – Xã hội” Phải mạnh dạn và tin tưởng giao việc cho học sinh làm. Trong công việc chú ý nêu gương, động viên là chủ yếu. II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm . 2.1. Cơ sở lí luận chung về học sinh cá biệt: Trước hết, chúng ta cần hiểu đúng khái niệm học sinh cá biệt. Đó là những học sinh có cá tính khác biệt so với số đông học sinh bình thường. Ngoài ra học sinh cá biệt được chia thành hai loại: 1 - Học sinh cá biệt về học tập. 2 - Học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống. Mặt khác để giáo dục học sinh cá biệt bản thân tôi hiểu được rằng: Học sinh cá biệt: là những học sinh thường có sự bất thường về tính cách, không có động cơ học tập, tâm lý không ổn định. Chẳng hạn khi ở lớp học đang yên lặng làm bài tập thì em đó bỗng la lớn lên khi làm bài được, thích học thì học, không thích thì đùa giỡn, quậy phá các bạn kề bên, thường trêu chọc các bạn nói chuyện với mình, tâm trạng thì "mưa nắng thất thường" hoặc thầy cô đang giảng về vấn đề này lại hỏi vấn đề khác. Chúng ta biết rằng những học sinh được gọi là “cá biệt” thường có hoàn cảnh đặc biệt. Môi trường sống bất ổn đã làm lòng tự trọng của các em có vấn đề. Học sinh cá biệt (HSCB) là học sinh hư về đạo đức, lười nhác học tập, những học sinh loại này thường rất lười biếng, hay quay cóp trong học tập; lừa dối cha mẹ, thầy cô; dọa nạt bạn bè; lãng tránh các hoạt động tập thể; Tiêu sài các khoản phí của bố mẹ cho để đóng góp với nhà trường; giả tạo chữ kí của bố mẹ trong sổ liên lạc hoặc giấy xin phép; Càn quấy, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích “chơi trội” theo kiểu con nhà đại gia giàu có, tụm lại với nhau đối lập với tập thể lớp. Họ thích ăn chơi phá phách hơn là học hành tử tế; Khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cố, bạn bè; Hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước thầy cô, bạn bè nhằm thỏa mãn những nhu cầu tinh nghịch được sắp sẵn trong đầu óc chúng. Có cách nói năng, ăn mặc, đi đứng hành động khác thường để gây sự chú ý. Kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “cuối sổ”, dẫn đến chán học. Ở những học sinh này, uy tín của bố mẹ, thầy cô có thể bị thay thế bởi những kẻ cầm đầu, côn đồ hung hãn, liều lĩnh, những anh chị “Đại ca” nên rất dễ dàng rơi vào những cạm bẫy, sai khiến súi giục của các “đàn anh, đàn chị”. * Những biểu hiện cá biệt cụ thể của HS thường gặp: - Những đối tượng cá biệt về học lực (có ba loại): + Một là: những em có trí tuệ và khả năng nhận thức bình thường nhưng rất lười biếng, lêu lổng, học kiểu “tài tử” dẫn đến hổng kiến thức, hay quay cóp trong học tập. Kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “cuối sổ”, dẫn đến chán học. + Hai là: những em thiểu năng về trí tuệ: Là những học sinh trông hình thức bề ngoài bình thường, hơi có vẻ như đần độn, trong học tập thì dạy mãi, học mãi chẳng nhập tâm được cái gì ( hay nói cách khác là thuộc diện “chậm hiểu”) + Ba là: những em thuộc diện khuyết tật (nói ngọng hoặc không nói được, mắt, tai, tay chân không bình thường,) dẫn đến không đủ giác quan, phương tiện để học tập bình thường như những bạn khác. - Những đối tượng cá biệt về hạnh kiểm: Thường có những biểu hiện như: + Một là: hay trốn học đi chơi điện tử, lừa dối cha mẹ, thầy cô, giả tạo chữ kí của bố mẹ trong sổ liên lạc hoặc giấy xin phép; Hình 1. Quán Internet tại phố1Lâm Xa (gần trường)học sinh đến chơi games + Hai là: dọa nạt bạn bè thậm chí đánh nhau; lảng tránh các hoạt động tập thể; + Ba là: tiêu sài các khoản phí của bố mẹ cho để đóng góp với nhà trường; ; Càn quấy, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích “chơi trội” theo kiểu con nhà đại gia giàu có cụm lại với nhau đối lập với tập thể lớp. Họ thích ăn chơi phá phách hơn là học hành tử tế; thậm chí còn có cả ăn cắp, ăn trộm, “cắm quán” tài sản không chỉ của mình mà còn lừa “mượn” của bạn; + Bốn là: khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cô, bạn bè; Hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước thầy cô, bạn bè nhằm thỏa mãn những nhu cầu tinh nghịch được xắp sẵn trong đầu óc chúng. Có cách nói năng, ăn mặc, đi đứng hành động khác thường để gây sự chú ý. + Năm là: có biểu hiện thích yêu đương, phân tán tư tưởng, thích diện, hay cãi lí với bố mẹ và thầy cô; Sẵn sàng bỏ học đi chơi cùng bạn 2.2. Thực trạng về học sinh cá biệt ở lớp 7 trường THCS Lâm Xa - Năm học 2016 - 2017, lớp 7 có tổng số 46 em. Trong đó: Nam: 26 em, nữ: 20 em. Qua thống kê và theo dõi trong lớp đầu năm có một số em học sinh thuộc dạng cá biệt và thuộc các dạng cá biệt như sau : 2.2.1. Dạng cá biệt về học tập: Đây là những học sinh lười học tập, không chịu lắng nghe giảng bài, thường vắng học và có kết quả học tập yếu kết quả khảo sát đầu năm có tỉ lệ yếu chiếm tỉ lệ trên 50 %. Đa số các em không học bài cũ, lười ghi chép bài,... Trong số đó có 3 em thuộc dạng cá biệt về học tập được theo dõi và chi tiết như sau : TT Họ và tên Biểu hiện 1 Phạm Văn Xuân Thường xuyên không học bài cũ, không phát biểu ý kiến xây dựng bài, không tích cực làm bài trong các tiết kiểm tra. 2 Trương Thị Mai Thường xuyên không học bài cũ, ghi bài chưa nghiêm túc, bỏ tiết, bỏ học vô lí do. 3 Dương Ngọc Hoàng Thường xuyên không học bài cũ, không phát biểu ý kiến xây dựng bài. 2.2.2- Dạng cá biệt về đạo đức : Qua khảo sát từ đầu năm học 2016-2017, cả lớp có 4 em có đạo đức không tốt. Hầu hết các em này học kém, nói tục, chửi thề và rất hay đánh nhau với bạn bè trong lớp cũng như ở lớp khác. Các em thường hay vắng học không lý do, hỏi ít trả lời. Trong đó có các em sau: TT Họ và tên Biểu hiện 1 Lê Văn Giang Hay nghỉ học không có lí do, đi chơi game. 2 Phạm Công Vinh Hỏi ít nói, thực hiện chưa đúng nội quy của lớp, của nhà trường. 3 Tạ Anh Tuấn Hay đánh nhau với bạn, xưng hô không đúng mực, vô lễ với thầy cô giáo. 4 Hà Minh Quân Học yếu, không chịu vâng lời thầy cô, hay trêu chọc và đánh nhau với bạn, hay nghỉ học vô lý do. 2.2.3. Nguyên nhân: - Từ gia đình: Thiếu sự quan tâm hay quá tin tưởng, chiều chuộng của gia đình; những éo le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến sự hư đốn, hay nói một cách khác là đạo đức học sinh yếu kém. Đa số các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, neo đơn. Nhiều em là con đầu phải bỏ học phụ giúp cho cha mẹ trong việc đi làm nương rẫy, đi làm thuê phụ giúp gia đình, lo cho em còn nhỏ .. Hình 2. Em Tạ tuấn nghỉ học để phụ giúp gia đình - Từ xã hội: Thực trạng những mặt xấu của xã hội; Trong điều kiện xã hội hiện nay từng giờ từng ngày những cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực của xã hội, dội vào nhà trường và tác động đến học sinh. - Từ bản thân học sinh : Giai đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi.Từ tuổi thiếu niên chuyển sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình bằng sự hiểu biết chưa hoàn thiện của mình; có thể do bản năng hoặc bệnh a dua hay bệnh lấy lệ. Thậm chí các em còn nghĩ làm như vậy là không sai! Khi đạo đức yếu kém thì học lực cùng tỉ lệ thuận với nó. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả, các em kiến thức bị hổng dẫn đến mất căn bản; điểm kiểm tra thấp so với các bạn cùng lớp làm các em mặc cảm đưa đến hiện tượng sợ bị kiểm tra, tiếp theo là chán học và cuối cùng nảy sinh bỏ học. Ảnh hưởng phim ảnh không lành mạnh, vì tò mò, bị rủ rê từ những thanh niên ham chơi, lêu lổng trong thôn xóm. Bị lôi cuốn bởi những phương tiện thông tin đại chúng, những tiêu cực về tệ nạn xã hội. Hãy tập cho các em có tính tự lập ngay từ nhỏ và biết chịu đựng, biết khắc phục những khó khăn thiếu thốn trong cuộc sống đời thường. Phải để cho các em thấy được sự lao động, vất vả khó nhọc khi làm ra đồng tiền và sử dụng đồng tiền như thế nào cho có hiệu quả. Do đó cần tạo cho học sinh ý thức tự giác trong học tập, nghiêm túc trong tác phong,... dần sẽ hình thành thói quen tốt. 2.3. Một số giải pháp của GVCN nhằm giáo dục học sinh cá biệt. Như chúng ta đã biết, giáo dục học sinh cá biệt là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp và rất khó thành công trong một thời gian ngắn. Nó đòi hỏi một quá trình dài lâu, có sự gắn kết, thật sự trách nhiệm của các giáo viên chủ nhiệm, từ cấp dưới đến cấp trên, cùng sự quan tâm chia sẻ thường xuyên từ phía phụ huynh, gia đình, xã hội. Người giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm phải nắm thông tin một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời về học sinh của mình đặc biệt là những HSCB để đề ra những biện pháp giáo dục thích hợp. Có quá ít thời gian tiếp cận với học sinh của lớp mình cũng là một hạn chế trong việc giáo dục HSCB, ngăn chặn học sinh bỏ học. Thực tế trong nhà trường phổ thông hiện nay việc giáo dục HSCB chủ yếu là do giáo viên chủ nhiệm phụ trách. Thực tế hiện nay các hoạt động, phong trào trong nhà trường (trừ hoạt động giảng dạy) nhìn chung còn nghèo nàn, chưa phong phú, mang tính hình thức. Các phong trào chưa lôi cuốn, hấp dẫn, chưa huy động đông đảo lực lượng học sinh tham gia. Chính vì vậy nhà trường cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục khác bên cạnh hoạt động dạy và học như: đố vui để học, hái hoa kiến thức, các hoạt động văn thể, cắm trại, ngoại khóa chuyên đề, tham quan dã ngoại, ... chính các hoạt động này có tác dụng bổ trợ rất lớn đến hoạt động dạy và học, góp phần thu hút học sinh la cà các em tham gia. Để góp phần làm cho công tác giáo dục HSCB trong nhà trường đạt hiệu quả, sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp: 2.3.1. GVCN khi lớp có học sinh cá biệt. - Bản thân người GVCN phải là tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm chất nhân cách của mình. Người GVCN hơn ai hết cần phải có trí tuệ, có lương tâm, có uy tín, sống mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ tín. - Hiểu biết tâm lý lứa tuổi của học sinh mình chủ nhiệm và hiểu được cuộc sống nội tâm của học sinh ở lứa tuổi này còn nhiều mặt dễ biến đổi. Do các quá trình tâm lý chưa ổn định và sự tác động rất lớn của xã hội, hoàn cảnh sống .... - Người GVCN phải có tinh thần trách nhiệm cao yêu nghề, yêu thương học sinh và luôn luôn xác định phương châm “Vì lợi ích trăm năm trồng người” và “Tất cả vì học sinh thân yêu”. - Biết sự kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện thiên chức người kỹ sư tâm hồn. - Có sự nhạy cảm sư phạm biết dùng yếu tố tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá biệt. Để làm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục HSCB, chúng ta cần làm những việc như sau : + Xác định đúng đối tượng thông qua phản ảnh của lớp, của GV bộ môn, của dư luận. + Phân loại : Học sinh cá biệt về học tập về đạo đức, lối sống. + Tìm hiểu nguyên nhân. Tìm hiểu sở trường, tính cách, hoàn cảnh của HS. Chúng ta nên tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh đó như là: thu nhập hàng ngày của gia đình, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình như thế nào ? Có êm ấm hạnh phúc hay không ? Có nhiều thành kiến gây bất đồng ra sao,... mục đích là để hiểu rõ học sinh này hơn. + Lựa chọn phương pháp, lên kế hoạch thực hiện mục tiêu giúp HS từ cá biệt trở về bình thường thậm chí là tốt. + Thực hiện kế hoạch, rút kinh nghiệm. - Đối với học sinh cá biệt, người GVCN phải biết nhìn bằng con mắt của tình thương và sự thông cảm thật sự xem học sinh như người thân của mình, ta nên có cái hiền từ bao dung của người mẹ, người cha; cái gần gũi cảm thông của người anh, người chị; và cái thân thiết của một người bạn. - Có điều kiện tâm tình, gặp gỡ, trao đổi vớ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_cua_giao_vien_chu_nhiem_nham_giao_duc.docx