SKKN Một số đổi mới trong phương pháp kiểm tra đánh giá môn Toán cho học sinh trường Trung học Cơ sở quận Thanh Xuân

SKKN Một số đổi mới trong phương pháp kiểm tra đánh giá môn Toán cho học sinh trường Trung học Cơ sở quận Thanh Xuân

Các khái niệm cơ bản :

1. Đánh giá :

 Định nghĩa về đánh giá do Jean Marie De Ketele phát biểu : “ Đánh giá có nghĩa là : thu thập một tập hợp thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy và xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này và tập hợp tiêu chí phù hợp với các mục tiêu định ra ban đầu hay điều chỉnh trong quá trình thu thập thông tin nhằm ra một quyết định”.

 Như vậy , đánh giá là một quá trình bắt đầu khi chúng ta ra một mục tiêu phải theo đuổi, và kết thúc khi chúng ta đã đề ra một quyết định có liên quan đến mục tiêu đó. Điều đó không có nghĩa là quá trình tổng thể kết thúc khi ra quyết định. Ngược lại, quyết định đánh dấu sự khởi đầu một quá trình khác cũng quan trọng như đánh giá : đó là quá trình đề ra những biện pháp cụ thể tuỳ theo kết quả đánh giá.

 Có 3 loại đánh giá :

 + Đánh giá định hướng ( có chức năng định hướng cho học sinh).

 + Đánh giá uốn nắn ( có chức năng chuẩn đoán những điểm yếu của học sinh để khắc phục ).

 + đánh giá xác nhận ( có chức năng quyết định sự thành công hay thất bại của học sinh.)

2. Kiểm tra :

 Kiểm tra là một quá trình trong đó các tiêu chí đã được định ra từ trước, trong đó chúng ta kiểm tra sự phù hợp của sản phẩm với các tiêu chí đã định, không quan tâm đến quyết định cần đề ra. Vậy đây là một quá trình hẹp hơn đánh giá, người đánh giá phải định ra mục tiêu và làm rõ các tiêu chí tương ứng với các mục tiêu.

 Kiểm tra được xem là phương tiện và hình thức đánh giá. Hoạt động kiểm tra cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá trong dạy học. Có 4 loại kiểm tra :

- Kiểm tra thăm dò.

- Kiểm tra kết quả.

- Kiểm tra xếp thứ bậc.

- Kiểm tra năng lực tổng thể có định hướng.

Thi cũng là hình thức kiểm tra nhưng có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.

3. Đo:

 Đo là một khái niệm chung dùng đê chỉ sự so sánh một vật hay một hiện tượng với một thước đo hoặc một chuẩn mực và khả năng trình bày kết quả về mặt định lượng.

 Bloom đã đưa ra cách đo trình độ học tập theo 6 mức từ đơn giản đến phức tạp như sau :

 + Nhớ : được định nghĩa là sự nhớ lại các dữ liệu đã học được trước đây. Điều đó có ý nghĩa là một học sinh có thể nhắc lại một loạt dữ liệu, từ các sự kiện đơn giản đến các lý thuyết phức tạp, tái hiện trong trí nhớ những thông tin cần thiết. Đây là cấp độ thấp nhất của kết quả học tập trong lĩnh vực nhận thức.

 + Hiểu : được định nghĩa là khả năng nắm được ý nghĩa của tài liệu. Điều đó có thể thể hiện bằng việc chuyển tài liệu từ dạng này sang dạng khác ( từ các từ sang số liệu ), bằng cách giải thích tài liệu ( giải thích hoặc tóm tắt ) và bằng cách ước lượng xu hướng tương lai ( dự báo các hệ quả hoặc ảnh hưởng ). Kết quả học tập ở cấp độ này cao hơn so với nhớ, và là mức độ thấp nhất của việc thấu hiểu sự vật.

 + Áp dụng : được định nghĩa là khả năng sử dụng tài liệu đã học vào một hoàn cảnh cụ thể mới. Điều đó có thể bao gồm việc áp dụng các quy tắc, phương pháp , khái niệm, nguyên lý, định luật và lý thuyết. Kết quả học tập trong lĩnh vực này đòi hỏi cấp độ thấu hiểu cao hơn so với mức độ thấu hiểu trên đây.

 + Phân tích : được định nghĩa là khả năng phân chia một tài liệu ra thành các phần của nó sao cho có thể hiểu được các cấu trúc tổ chức của nó. điều đó có thể bao gồm việc chỉ ra đúng các bộ phận, phân tích mối quanhệ giữa các bộ phận và nhận biết được các nguyên lí tổ chức được bao hàm. Kết quả học tập ở đây thể hiện một mức độ trí tuệ cao hơn so với mức hiểu và áp dụng vì nó đòi hỏi một sự thấu hiểu cả nội dung và hình thái cấu trúc của tài liệu.

 + Tổng hợp : được định nghĩa là khả năng sắp xếp các bộ phận lại với nhau để hình thành một tổng thể mới. điều đó có thể bao gồm việc tạo ra một cuộc giao tiếp đơn nhất ( chủ đề hoặc bài phát biểu ), một kế hoạch hành động ( dự án nghiên cứu ), hoặc một mạng lưới các quan hệ trừu tượng ( sơ đồ để phân thông tin ). Kết quả học tập trong lĩnh vực này nhấn mạnh các hành vi sáng tạo, đặc biệt tập trung chủ yếu vào việc hình thành các mô hình hoặc các cấu trúc mới.

 + Đánh giá : được định nghĩa là khả năng xác định giá trị của tài liệu ( tuyên bố, thơ, tiểu thuyết, báo cáo nghiên cứu ). Việc đánh giá dựa trên các tiêu chí nhất định. Đó có thể là các tiêu chí bên trong ( cách tổ chức ) hoặc tiêu chí bên ngoài (phù hợp với mục đích ). Và người đánh giá phải tự xác định hoặc được cung cấp các tiêu chí. Kết quả học tập trong lĩnh vực này là cao nhất trong các cấp bậc nhận thức vì nó chứa các yếu tố của mọi lĩnh vực khác.

 

doc 34 trang hoathepmc36 01/03/2022 8743
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số đổi mới trong phương pháp kiểm tra đánh giá môn Toán cho học sinh trường Trung học Cơ sở quận Thanh Xuân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
Phần I : Đặt vấn đề
Lý do chọn đề tài 
Mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
Phần II : Nội dung
I. CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Các khái niệm cơ bản :
II. Kiểm tra , đánh giá chất lượng học tập của học sinh :
III. Một số vấn đề về đổi mới dạy học môn toán ở trường trung học cơ sở theo cải cách giáo dục
CHƯƠNG II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Đổi mới trong kiểm tra đánh giá môn toán lớp 6
1. Phân phối chương trình toán 6
2. Mục tiêu của môn toán 6.
3. Thực trạng của công việc kiểm tra và đánh giá kiến thức môn toán 6 ở trường THCS . những năm trước đây.
4. Những đặc điểm cơ bản của các đề kiểm tra định kỳ môn toán 6 hiện nay.
CHƯƠNG III : MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MỚI
1. Quy trình xây dựng đề kiểm tra môn toán 6
2.Một số phương pháp kiểm tra đánh giá mới
Phần III : Kết luận và khuyến nghị
Nhận định và đối chiếu kết quả trước và sau khi thực hiện SKKN 
3
3
5
5
9
13
16
16
17
19
22
24
32
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lý do chọn đề tài :
 Năm học 2015-2016, toàn ngành tập trung triển khai Kế hoạch hành động  thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”	. 
Để đạt được điều này toàn ngành phải tập trung thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ năm học. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đó là đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tăng cường kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Đa dạng hóa các hình thức học tập, chú trọng các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
  Trong đổi mới phương pháp dạy học phải chú trọng và tiếp tục đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh, bảo đảm trung thực, khách quan; phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học tập với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của giáo viên với tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau của học sinh; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội. Bởi vì kết quả của việc dạy học được phản ánh ở kết quả học tập của người học. Việc kiểm tra đánh giá càng chính xác càng có cơ sở điều chỉnh cách dạy và học nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học hiện nay.
 Chương trình giáo dục phổ thông của các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng quan tâm đúng mức đến mục tiêu cần làm, các năng lực cần phát triển ở học sinh, cách thức và phương tiện để phát triển năng lực đó, cách thức kiểm tra đánh giá.
 Trước xu thế toàn cầu, giáo dục Việt Nam cũng đã có những đổi mới về chương trình cũng như phương pháp giảng dạy. Từ năm 2004 bộ sách giáo khoa soạn theo chương trình mới đã được đưa vào triển khai đại trà trên toàn quốc.
	Môn Toán 6 nói riêng và chương trình toán THCS đã có sự biên soạn lại trên ba phương diện : nội dung, thời lượng và mức độ yêu cầu. Việc giảm bớt một số nội dung cũng như mức độ yêu cầu của nhiều nội dung khác trong chương trình nhằm tạo điều kiện cho việc tăng cường hoạt động học tập đa dạng của học sinh trong giờ học môn toán. Song việc dạy học ở trên lớp và việc tổ chức kiểm tra đánh giá môn toán 6 dường như mới chỉ mang tính lý thuyết và phản ánh chưa sát thực, chưa đảm bảo tính toàn diện, khách quan, tin cậy và trung thực.
	Với những lí do trên đồng thời với kết quả thực tế giảng dạy tôi chọn đề tài : “ Một số đổi mới trong phương pháp kiểm tra đánh giá môn toán cho học sinh THCS ”. Ví dụ ứng dụng là môn toán 6
Mục đích nghiên cứu :
Xác định thực tế về kiểm tra đánh giá môn toán 6 ở trường THCS và các yếu tố ảnh hưởng.
Xác định thực trạng của việc ra đề và đặc điểm của các đề kiểm tra toán THCS hiện nay.
Hướng tới cung cấp cho giáo viên vật lý trường THCS  một tài liệu tham khảo để kiểm tra, đánh giá và tự đánh giá chất lượng dạy và học môn toán 6.
Thử nghiệm một số phương án mới để kiểm tra đánh giá môn toán 6.
Đối tượng nghiên cứu :
 Vấn đề kiểm tra đánh giá môn toán 6 ở trường THCS.
Khách thể nghiên cứu :
 Phương pháp dạy học môn toán 6 ở trường THCS.
Nhiệm vụ nghiên cứu :
Hệ thống hoá cơ sở lí luận về :
+ Các khái niệm cơ bản về kiểm tra, đánh giá.
+ Kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập của học sinh.
+ Một số vấn đề về đổi mới dạy học môn toán 6 ở trường trung học cơ sở.
Xác định thực tế vấn đề kiểm tra đánh giá môn toán 6 ở trường THCS .
Đề xuất một số phương án mới để kiểm tra đánh giá môn toán 6 ở trường THCS.
Tổ chức thực nghiệm sư phạm.
Tổng kết kết quả thực nghiệm.
Kết luận và kiến nghị.
Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết : Tìm hiểu cơ sở lí luận về kiểm tra đánh giá .
Phương pháp điều tra : kiểm tra thực trạng về cách thức kiểm tra đánh giá môn toán 6 tại trường THCS ...
Thực nghiệm sư phạm : tổ chức kiểm tra đánh giá theo phương pháp mới.
Tổng hợp kết quả, trên cơ sở đó đề ra phương pháp kiểm tra đánh giá mới hợp lý.
PHẦN II : NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Các khái niệm cơ bản :
1. Đánh giá :
 Định nghĩa về đánh giá do Jean Marie De Ketele phát biểu : “ Đánh giá có nghĩa là : thu thập một tập hợp thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy và xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này và tập hợp tiêu chí phù hợp với các mục tiêu định ra ban đầu hay điều chỉnh trong quá trình thu thập thông tin nhằm ra một quyết định”.
	Như vậy , đánh giá là một quá trình bắt đầu khi chúng ta ra một mục tiêu phải theo đuổi, và kết thúc khi chúng ta đã đề ra một quyết định có liên quan đến mục tiêu đó. Điều đó không có nghĩa là quá trình tổng thể kết thúc khi ra quyết định. Ngược lại, quyết định đánh dấu sự khởi đầu một quá trình khác cũng quan trọng như đánh giá : đó là quá trình đề ra những biện pháp cụ thể tuỳ theo kết quả đánh giá.
	Có 3 loại đánh giá :
	+ Đánh giá định hướng ( có chức năng định hướng cho học sinh).
	+ Đánh giá uốn nắn ( có chức năng chuẩn đoán những điểm yếu của học sinh để khắc phục ).
	+ đánh giá xác nhận ( có chức năng quyết định sự thành công hay thất bại của học sinh.)
2. Kiểm tra : 
 Kiểm tra là một quá trình trong đó các tiêu chí đã được định ra từ trước, trong đó chúng ta kiểm tra sự phù hợp của sản phẩm với các tiêu chí đã định, không quan tâm đến quyết định cần đề ra. Vậy đây là một quá trình hẹp hơn đánh giá, người đánh giá phải định ra mục tiêu và làm rõ các tiêu chí tương ứng với các mục tiêu.
 Kiểm tra được xem là phương tiện và hình thức đánh giá. Hoạt động kiểm tra cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá trong dạy học. Có 4 loại kiểm tra :
Kiểm tra thăm dò.
Kiểm tra kết quả.
Kiểm tra xếp thứ bậc.
Kiểm tra năng lực tổng thể có định hướng.
Thi cũng là hình thức kiểm tra nhưng có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
3. Đo:
 Đo là một khái niệm chung dùng đê chỉ sự so sánh một vật hay một hiện tượng với một thước đo hoặc một chuẩn mực và khả năng trình bày kết quả về mặt định lượng.
 Bloom đã đưa ra cách đo trình độ học tập theo 6 mức từ đơn giản đến phức tạp như sau :
 + Nhớ : được định nghĩa là sự nhớ lại các dữ liệu đã học được trước đây. Điều đó có ý nghĩa là một học sinh có thể nhắc lại một loạt dữ liệu, từ các sự kiện đơn giản đến các lý thuyết phức tạp, tái hiện trong trí nhớ những thông tin cần thiết. Đây là cấp độ thấp nhất của kết quả học tập trong lĩnh vực nhận thức.
 + Hiểu : được định nghĩa là khả năng nắm được ý nghĩa của tài liệu. Điều đó có thể thể hiện bằng việc chuyển tài liệu từ dạng này sang dạng khác ( từ các từ sang số liệu ), bằng cách giải thích tài liệu ( giải thích hoặc tóm tắt ) và bằng cách ước lượng xu hướng tương lai ( dự báo các hệ quả hoặc ảnh hưởng ). Kết quả học tập ở cấp độ này cao hơn so với nhớ, và là mức độ thấp nhất của việc thấu hiểu sự vật.
 + Áp dụng : được định nghĩa là khả năng sử dụng tài liệu đã học vào một hoàn cảnh cụ thể mới. Điều đó có thể bao gồm việc áp dụng các quy tắc, phương pháp , khái niệm, nguyên lý, định luật và lý thuyết. Kết quả học tập trong lĩnh vực này đòi hỏi cấp độ thấu hiểu cao hơn so với mức độ thấu hiểu trên đây.
 + Phân tích : được định nghĩa là khả năng phân chia một tài liệu ra thành các phần của nó sao cho có thể hiểu được các cấu trúc tổ chức của nó. điều đó có thể bao gồm việc chỉ ra đúng các bộ phận, phân tích mối quanhệ giữa các bộ phận và nhận biết được các nguyên lí tổ chức được bao hàm. Kết quả học tập ở đây thể hiện một mức độ trí tuệ cao hơn so với mức hiểu và áp dụng vì nó đòi hỏi một sự thấu hiểu cả nội dung và hình thái cấu trúc của tài liệu.
 + Tổng hợp : được định nghĩa là khả năng sắp xếp các bộ phận lại với nhau để hình thành một tổng thể mới. điều đó có thể bao gồm việc tạo ra một cuộc giao tiếp đơn nhất ( chủ đề hoặc bài phát biểu ), một kế hoạch hành động ( dự án nghiên cứu ), hoặc một mạng lưới các quan hệ trừu tượng ( sơ đồ để phân thông tin ). Kết quả học tập trong lĩnh vực này nhấn mạnh các hành vi sáng tạo, đặc biệt tập trung chủ yếu vào việc hình thành các mô hình hoặc các cấu trúc mới.
 + Đánh giá : được định nghĩa là khả năng xác định giá trị của tài liệu ( tuyên bố, thơ, tiểu thuyết, báo cáo nghiên cứu ). Việc đánh giá dựa trên các tiêu chí nhất định. Đó có thể là các tiêu chí bên trong ( cách tổ chức ) hoặc tiêu chí bên ngoài (phù hợp với mục đích ). Và người đánh giá phải tự xác định hoặc được cung cấp các tiêu chí. Kết quả học tập trong lĩnh vực này là cao nhất trong các cấp bậc nhận thức vì nó chứa các yếu tố của mọi lĩnh vực khác.
4. Chuẩn đánh giá :
 Chuẩn là mức tối thiểu cần đạt được trong việc xem xét đánh giá chất lượng sản phẩm đã tạo ra.
	Chuẩn đánh giá chính là biểu hiện cụ thể mức tối thiểu của mục tiêu giáo dục mà người học phải đạt được. Thường người ta xây dựng chuẩn đánh giá môn học cho cả cấp học : tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông hoặc chuẩn đánh giá cho cả năm học, hoặc cụ thể đối với từng trường ở mỗi cấp độ như thế cần định ra kiến thức cơ bản, kĩ năng tối thiểu cần đạt được.
5. Hình thức kiểm tra :
 Đánh giá dựa trên những dữ kiện, những thông tin, những số liệu do việc kiểm tra cung cấp. Việc kiểm tra có nhiều dạng : kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, kiểm tra tổng kết vào cuối năm học, kiểm tra và thi hết môn.
a) Kiểm tra thường xuyên :
 Việc kiểm tra thường xuyên được thực hiện qua quan sát một cách có hệ thống hoạt động của các lớp học nói chung, của mỗi học sinh nói riêng qua các khâu ôn tập, củng cố bài cũ, tiếp thu bài mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Kiểm tra thường xuyên giúp cho thầy kịp thời điều chỉnh cách dạy, trò kịp thời điều chỉnh cách học, tạo điều kiện vững chắc để quá trình dạy học chuyển hoá dần sang những bước mới.
b) Kiểm tra định kì : 
 Hình thức kiểm tra này được thực hiện sau khi học xong một chương lớn, một phần lớn của chương trình, hoặc sau khi học xong một học kì. Nó giúp giáo viên và học sinh nhìn lại kết quả dạy và học sau những kì hạn nhất định, đánh giá trình độ học sinh nắm một khối lượng kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo tương đối lớn, củng cố , mở rộng những điều đã học đặt cơ sở tiếp tục học sang những phần mới.
c) Kiểm tra tổng kết :
 Hình thức kiểm tra này được thực hiện vào cuối mỗi giáo trình, cuối mỗi năm học nhằm đánh giá kết quả chung, củng cố và mở rộng chương trình toàn năm của môn học, chuẩn bị điều kiện để tiếp tục học chương trình của năm sau.
 Các dạng kiểm tra được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như kiểm tra miệng, kiểm tra viết, kiểm tra thực hành.
 + Kiểm tra miệng : được sử dụng trước khi, trong khi và sau khi học bài mới cũng như trong các kì thi cuối học kì, cuối năm học. Nó giúp giáo viên thu được những tín hiệu ngược nhanh chóng và có tác dụng thúc dẩy người học tích cực học tập một cách thường xuyên và có hệ thống.
 + Kiểm tra viết : được sử dụng sau khi kết thúc một chương mục nào đó. Ví dụ : kiểm tra 15’, kiểm tra một tiết, thi học kì, thi học sinh giỏi...Nó có tác dụng kiểm tra trình độ nắm vững tri thức của người học và nó giúp họ rèn luyện năng lực trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ viết.
 + Kiểm tra thực hành : nhằm kiểm tra kĩ năng, kĩ xảo thực hành đối với các môn học. Việc kiểm tra này có thể được tiến hành ở trên lớp, trong phong thí nghiệm,..
6. Công cụ đánh giá :
 Trong xã hội hiện đại, rất nhiều công cụ có thể phục vụ cho việc đánh giá học sinh. Ví dụ : phòng quan sát, phòng thực hành, máy móc hiện đại.
 Ở nước ta hiện nay, trong đánh giá kết quả học tập, thường sử dụng hai loại công cụ chủ yếu gọi là câu hỏi, bài tập tự luận và câu hỏi, bài tập trắc nghiệm khách quan. Chúng ta không nên quá nhấn mạnh công cụ nào vì mỗi loại công cụ đều có những mặt mạnh và mặt hạn chế. Vấn đề là biết sử dụng chúng một cách hợp lý thì đạt hiệu quả cao. Việc lựa chọn công cụ phải lưu ý một số vấn đề sau :
 + Tránh khuynh hướng lạm dụng câu hỏi và bài tập trắc nghiệm khách quan.
 + Ngại sử dụng trắc nghiệm khách quan vì một số lí do như : khó soạn đề, đề bài quá dài, điều kiện cơ sở vật chất không đáp ứng được kiểu ra đề bằng trắc nghiệm khách quan.
 + Kết hợp một cách tuỳ tiện hoặc quá máy móc giữa các công cụ kiểm tra. Cần căn cứ vào ma trận của đề kiểm tra mà xác định việc kết hợp các công cụ cần kiểm tra cho hợp lý trong đó phải tính tới thời gian cho mỗi loại và cả điểm số cho từng câu tương ứng. 
+ Sử dụng hợp lý số lượng câu hỏi và nội dung câu hỏi trắc nghiệm tránh hiện tượng học sinh có thể nhìn bài nhau khi làm bài sẽ không đánh giá đúng mức độ kiến thức học sinh hiểu bài.
a) Câu hỏi, bài tập tự luận :
 Câu hỏi, bài tập tự luận cho phép có sự tự do tương đối nào đó để trả lời một vấn đề được đặt ra, nhưng đồng thời lại đòi hỏi học sinh phải nhớ lại hơn là nhận biết thông tin, và phải biết sắp xếp và diễn đạt ý kiến của học sinh một cách chính xác và sáng sủa. Bài tập và câu hỏi tự luận trong một chừng mực nào đó được chấm điểm một cách chủ quan và các điểm cho bởi các người chấm khác nhau có thể là không thống nhất. Thông thường một bài tập tự luận gồm ít câu hỏi hơn là một bài trắc nghiệm khách quan cho cần nhiều thời gian để trả lời một câu hỏi.
 Các chuyên gia về đánh giá cho rằng phương pháp tự luận nên dùng trong các trường hợp sau :
 + Khi thí sinh quá đông.
 + Khi muốn khuyến khích và đánh giá cách diễn đạt.
 + Khi muốn tìm hiểu ý tưởng của thí sinh hơn là khảo sát thành quả học tập.
 + Khi có thể tin tưởng khả năng chấm bài tự luận của giáo viên là chính xác.
 + Khi không nhiều thời gian soạn đề nhưng có đủ thời gian để chấm bài.
b) Câu hỏi , bài tập trắc nghiệm khách quan.
 Trước nghiệm được gọi là khách quan vì hệ thống cho điểm là khách quan chứ không chủ quan như đối với bài tập và câu hỏi tự luận. Thông thường có nhiều câu trả lời được cung cấp cho mỗi câu hỏi của bài tập trắc nghiệm nhưng chỉ có một câu trả lời đúng hay câu trả lời tốt nhất. Bài trắc nghiệm được chấm điểm bằng cách đếm số lần mà người làm trắc nghiệm trả lời đúng.
 Các kiểu câu hỏi trắc nghiệm khách quan :
 Trong nhóm trắc nghiệm khách quan có nhiều kiểu câu hỏi khác nhau :
+ Câu ghép đôi : đòi hỏi thí sinh phải ghép đúng từng cặp nhóm từ ở hai cột khác nhau sao cho phù hợp về ý nghĩa.
+ Câu điền khuyết : nêu một mệnh đề có một bộ phận bị khuyết, thí sinh phải nghĩ ra nội dung thích hợp để điền vào chỗ trống.
+ Câu trả lời ngắn : là câu trắc nghiệm chỉ đòi hỏi trả lời bằng nội dung rất ngắn .
+ Câu đúng sai : đưa ra một nhận định, thí sinh phải lựa chọn một trong hai phương án trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay sai :
+ Câu nhiều lựa chọn : đưa ra một nhận định và 4-5 phương án trả lời, thí sinh phải chọn để đánh dấu vào một phương án đúng hoặc một phương án tốt nhất.
Các chuyên gia về đánh giá cho rằng phương pháp trắc nghiệm khách quan nên dùng trong các trường hợp sau :
+ Khi số thí sinh rất đông.
+ Khi muốn chấm bài nhanh.
+ Khi muốn có số điểm đáng tin cậy, không phụ thuộc vào người chấm bài.
+ Khi phải coi trọng yếu tố công bằng, vô tư, chính xác và muốn ngăn chặn sự gian lận trong thi cử.
+ Khi muốn kiểm tra một phạm vi hiểu biết rộng, muốn ngăn ngừa nạn học tủ, học vẹt và giảm thiểu sự may rủi.
c) So sánh các phương pháp trắc nghiệm khách quan và tự luận :
 Có thể thấy rằng cả hai phương pháp, trắc nghiệm khách quan và tự luận đều là những phương pháp hữu hiệu để đánh giá kết quả học tập. Cần nắm vững bản chất từng phương pháp và công nghệ triển khai cụ thể có thể sử dụng mỗi phương pháp đúng lúc đúng chỗ..
 Ưu, nhược điểm của trắc nghiệm khách quan và tự luận :
Vấn đề
Ưu điểm thuộc về trắc nghiệm khách quan
Ưu điểm thuộc về tự luận
Ít tốn công ra đề
X
Đánh giá được khả năng diễn đạt, trình bày , đặc biệt là khả năng tư duy trừu tượng
X
Đề kiểm tra phủ kín nội dung học.
X
Ít may rủi do “ trúng, sai tủ ”
X
Ít tốn công chấm điểm
X
Khách quan trong chấm điểm
X
Độ tin cậy cao
X
Khả năng phân loại với độ chính xác cao.
X
Hình thức bài trắc nghiệm phong phú và đa dạng.
X
Có thể dùng loại câu hỏi để kiểm tra nhiều lần.
X
Hàm lượng thông tin cao
X
II. Kiểm tra , đánh giá chất lượng học tập của học sinh :
 Đánh giá chất lượng và hiệu quả dạy học là quá trình thu thập và xử lý thông tin nhằm mục đích tạo cơ sở cho những quyết định về mục tiêu, chương trình, phương pháp dạy học, về những hoạt động khác có liên quan của nhà trường và ngành giáo dục. Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản thân học sinh để họ học tập ngày một tiến bộ hơn.
1) Chất lượng và chất lượng học tập :
 Chất lượng là “ cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc” ( trích “ Từ điển tiếng Việt ”) . Chất lượng là phạm trù rất rộng có liên quan đến nhiều lĩnh vực và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong giáo dục, với đặc thù tạo ra sản phẩm là con người nên khi tiếp cận khái niệm này cần được hiểu như sự xem xét những phẩm chất và năng lực tạo nên nhân cách của con người.
 Chất lượng học tập trong chừng mực nào đó có thể xem xét như là kết quả học tập của học sinh. Theo GS. TS Hoàng Đức Nhuận và PGS. TS Lê Đức Phúc, kết quả học tập là một khái niệm thường được hiểu theo hai quan niệm khác nhau trong thực tế cũng như trong nghiên cứu khoa học.
+ Đó là mức độ thành tích mà một chủ thể học tập đã đạt, được xem xét trong mối quan hệ với công sức, thời gian đã bỏ ra, với mục tiêu xác định. Theo quan niệm này, kết quả học tập là mức thực hiện tiêu chí.
+ Đó còn là mức thành tích đạt được của một học sinh so với các bạn khác. Theo quan niệm này, đó là mức độ thực hiện chuẩn mà nhiều người đã nhận xét là biểu hiện của tâm lý học sai biệt.
+ Chất lượng học tập được xem xét trên bình diện một sản phẩm đầu ra sau một quá trình tác động có chủ định của hoạt động dạy học. Tác động của quá trình dạy học bao gồm nhiều yếu tố dựa trên một hệ điều kiện từ đời sống kinh tế, trình độ dân trí, cơ sở vật chất, chương trình – sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên... Từ đó sản phẩm được hình thành và tiếp tục phát triển ở những giai đoạn tiếp theo của quá trình giáo dục. Không như chất lượng của các loại sản phẩm khác, sản phẩm của quá trình dạy học làm nên chất lượng học tập sau khi đã được xác nhận có thể thay đổi theo cả hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực.
 + Chất lượng học tập môn học của học sinh thể hiện số lượng đơn vị kiến thức theo yêu cầu môn học mà học sinh nắm bắt ở mức độ nhận thức ( theo B.S. Bloom : nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích tổng hợp và đánh giá ). Ngoài ra, chất lượng học tập cũng biểu hiện ở cả kĩ năng và thái độ học tập của học sinh sau khi có những vốn kiến thức về môn học.
 Trong quá trình hình thành và hoàn thiện nhân cách của mình, mỗi học sinh được trải qua quá trình giáo dục bao gồm các mặt giáo dục trí tuệ, đạo đức, lao động, thể chất, thẩm mĩ. Đánh giá chất lượng học tập môn học của học sinh thực chất là xem xét mức độ hoàn thành mục tiêu giáo dục đã đặt ra cho quá trình giá

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_doi_moi_trong_phuong_phap_kiem_tra_danh_gia_mon.doc