SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học tập môn Toán lớp 3 theo mô hình VNEN
Dựa vào mục tiêu giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện trong thời đại mới, trong công cuộc đổi mới đất nước. Giáo dục có vai trò quan trọng trong sự phát triển nhân cách con người. Mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao kiến thức năng lực tự giác cho học sinh ở tất cả các cấp học. Trong lúc đó một số phương pháp dạy học truyền thống tuy đã góp phần thay đổi, tạo ra tính tích cực, chủ động, tự giác trong học tập nhưng vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu của học tập trong thời kì mới.
Trên thế giới việc thay đổi phương thức giáo dục đã diễn ra từ lâu, đã mang lại nhiều thành công. Hình thức giáo dục mới này chuyển từ cách dạy truyền thống thầy giảng - trò nghe, ghi chép thụ động sang hình thức giáo dục hiện đại. Trò làm việc, trải nghiệm chiếm lĩnh tri thức, thầy quan sát hướng dẫn. Nổi bật của hình thức dạy học này là học sinh được học tập cá nhân và theo nhóm, được tự do thảo luận đưa ra ý kiến của mình.
Mô hình trường học mới Việt Nam -VNEN là một trong những mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, thể hiện qua một số điểm cơ bản : Học sinh được học theo tốc độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân, nội dung học thiết thực gắn kết với thực tiễn hàng ngày của học sinh, môi trường học tập thân thiện, phát huy được tinh thần dân chủ, ý thức tập thể, chú trọng kĩ năng làm việc theo nhóm hợp tác.
Các tiết học nói chung cũng như môn Toán nói riêng theo chương trình VNEN được thiết kế theo kiểu cấu trúc:
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT CẨM THỦY SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM "MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH HỌC TẬP MÔN TOÁN LỚP 3 " THEO MÔ HÌNH VNEN. Người thực hiện : Phạm Thị Bích Chức vụ : Giáo viên Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Cẩm Châu SKKN thuộc môn : Toán THANH HÓA, NĂM 2018 MỤC LỤC TT Đề mục Trang 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 12 13 14 Mục lục....................................................................................... 1. Mở đầu.................................................................................. 1.1. Lí do chọn đề tài................................................................. 1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................... 1.3.Đối tượng, thời gian, phạm vi nghiên cứu ......................... 1.4. Phương pháp nghiên cứu.................................................... 2.Nội dung................................................................................. 2.1.Cơ sở lý luận........................................................................ 2.2. Thực trạng của việc dạy học môn Toán lớp 3.................... 2.3. Các biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học tập .............. 2.4. Hiệu quả của SKKN............................................................ 3. Kết luận, kiến nghị............................................................... Tài liệu tham khảo..................................................................... 1 1 2 2 2 2 2-3 3-5 5-17 18-19 19-20 1. MỞ ĐẦU 1.1.Lý do chọn đề tài : Dựa vào mục tiêu giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện trong thời đại mới, trong công cuộc đổi mới đất nước. Giáo dục có vai trò quan trọng trong sự phát triển nhân cách con người. Mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao kiến thức năng lực tự giác cho học sinh ở tất cả các cấp học. Trong lúc đó một số phương pháp dạy học truyền thống tuy đã góp phần thay đổi, tạo ra tính tích cực, chủ động, tự giác trong học tập nhưng vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu của học tập trong thời kì mới. Trên thế giới việc thay đổi phương thức giáo dục đã diễn ra từ lâu, đã mang lại nhiều thành công. Hình thức giáo dục mới này chuyển từ cách dạy truyền thống thầy giảng - trò nghe, ghi chép thụ động sang hình thức giáo dục hiện đại. Trò làm việc, trải nghiệm chiếm lĩnh tri thức, thầy quan sát hướng dẫn. Nổi bật của hình thức dạy học này là học sinh được học tập cá nhân và theo nhóm, được tự do thảo luận đưa ra ý kiến của mình. Mô hình trường học mới Việt Nam -VNEN là một trong những mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, thể hiện qua một số điểm cơ bản : Học sinh được học theo tốc độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân, nội dung học thiết thực gắn kết với thực tiễn hàng ngày của học sinh, môi trường học tập thân thiện, phát huy được tinh thần dân chủ, ý thức tập thể, chú trọng kĩ năng làm việc theo nhóm hợp tác... Các tiết học nói chung cũng như môn Toán nói riêng theo chương trình VNEN được thiết kế theo kiểu cấu trúc: Tạo hứng thú Trải nghiệm Phân tích - khám phá- rút ra bài học Thực hành - củng cố Ứng dụng Do đó, để học sinh học tốt được môn Toán lớp 3 theo mô hình VNEN thì công việc đầu tiên người giáo viên phải làm đó là tạo sự hứng thú học tập cho các em, lôi cuốn các em vào các hoạt động nhằm chiếm lĩnh những tri thức. Trong toán học đòi hỏi học sinh phải tư duy, sáng tạo, suy luận logic. Là một môn học khó, chiếm nhiều thời gian nên phần lớn học sinh rất ngại học môn Toán. Trong thực tế dạy học hiện nay, phần lớn giáo viên chỉ tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động theo tài liệu học tập một cách dập khuôn máy móc, ít có sự điều chỉnh tài liệu. Nếu chỉ dạy học như vậy thì các tiết học sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Mặt khác do trình độ học sinh không đồng đều nên dẫn đến tình trạng có em hoàn thành bài tập nhanh, có em hoàn thành chậm dẫn đến việc chuyển các hoạt động chưa kịp thời trong nhóm. Đây cũng là nguyên nhân khiến học sinh càng chán học Toán, gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới hàng ngày. Là một giáo viên dạy học theo mô hình VNEN nhiều năm, tôi luôn trăn trở làm thế nào để học sinh có hứng thú trong học tập môn Toán, học sinh làm được các bài tập theo khả năng của mình, để các tiết học diễn ra một cách sôi nổi, hào hứng. Chính vì vậy mà tôi đã chủ động nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học tập môn Toán lớp 3" theo mô hình VNEN. Nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Toán cho các em học sinh. 1.2. Mục đích nghiên cứu : Thông qua sáng kiến kinh nghiệm nhằm : - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán lớp 3 theo mô hình VNEN, giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo ở các em. - Tạo sự hứng thú học tập môn Toán cho học sinh, một môn học được coi là khô khan, hóc búa. Nhằm mục đích để các em học sinh chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng thoải mái. 1.3.Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu các biện pháp gây hứng thú học tập môn Toán lớp 3. Từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm khi tổ chức dạy học, nhằm nâng cao hiệu quả môn học. 1.4.Phương pháp nghiên cứu : - Phương pháp quan sát thông qua dự giờ - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, kiểm tra đối chứng - Phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu, đàm thoại... 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1.Cơ sở lý luận : Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Toán học góp phần trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn Toán góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí, cách phát hiện và giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học toán, góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có khoa học, chủ động, linh hoạt và có sáng tạo. Môn Toán có vị trí quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn Toán là "chìa khóa" mở của các ngành khoa học khác đúng như câu nói : " Toán học có cội rễ sâu xa trong đời sống hàng ngày và là nền tảng của tiến bộ kĩ thuật." Trong việc dạy học Toán Tiểu học nói chung cũng như Toán lớp 3 theo mô hình VNEN nói riêng đều thực hiện trên cơ sở tổ chức hướng dẫn các hoạt động, chủ động sáng tạo của học sinh, luôn lấy học sinh làm trung tâm, giúp các em phát huy được năng lực sở trường một cách tốt nhất. Dạy học là một nghệ thuật, nghệ thuật ấy đạt đến đỉnh cao khi người giáo viên hướng dẫn được cho học sinh cách chủ động, sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Toán là môn thể thao trí tuệ hãy tổ chức cho các em "chơi" một cách sáng tạo để tìm ra những điều lí thú trong đó. Chính vì vậy mà để nâng cao chất lượng môn Toán giáo viên cần thay đổi hình thức, phương pháp dạy học. Giáo viên phải là người mạnh dạn, sáng tạo trong việc dạy học để gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em học tập hiệu quả hơn. 2.2.Thực trạng dạy học môn Toán ở lớp 3 : * Về phía giáo viên : Học tập môn Toán nói chung là một hoạt động trí tuệ khó khăn phức tạp. Việc hình thành kĩ năng tính và giải toán không hề dễ đối với học sinh. Đòi hỏi ở học sinh phải nắm vững các kiến thức đã học để vận dụng tính toán và giải toán. Đối với chương trình VNEN thì việc học tập môn Toán càng khó hơn. Bởi vì theo đặc trưng của mô hình phần lớn là các em phải tự học theo sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên và tài liệu. Do vậy dạy học làm sao để tất cả học sinh đều thực hiện được các yêu cầu, làm được các bài toán là vô cùng khó khăn đối với giáo viên, đặc biệt là lớp 3 các em đang còn nhỏ, khả năng ghi nhớ chưa cao. Đa số ở các tiết học giáo viên chưa quan tâm đến hình thức tổ chức học tập, các tiết học thường diễn ra đơn điệu, gây cho học sinh sự nhàm chán. Việc điều chỉnh tài liệu, tổ chức trò chơi học tập, viết những câu chuyện vui toán học... giáo viên ít khi vận dụng. Đây cũng là lí do khiến học sinh chưa hứng thú trong học tập, chưa khuyến khích được các em có lòng đam mê học Toán. Mặt khác, do trình độ học sinh không đồng đều, nên thời gian hoàn thành các bài tập không cùng nhau, gây khó khăn cho viên chữa bài hay chốt kiến thức. Những em với khả năng tiếp thu tốt, các em làm bài tập nhanh trước thời gian, với khả năng của các em vẫn có thể làm được những bài tập cao hơn nữa. Còn những em khả năng tiếp thu chậm, không làm được bài tập, các bài tập quá sức với các em. Trong thực tế dạy học, giáo viên chưa quan tâm đến việc thiết kế, điều chỉnh các bài toán cho phù hợp với khả năng của các em, để các em phát huy được năng lực sở trường hay bổ sung những mạch kiến thức còn bị khiếm khuyết. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến học sinh càng ngại học toán. *Về phía học sinh : Môn Toán là môn học chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của học sinh, là một môn độc lập, cần phải có suy nghĩ và tư duy lôgic. Nhiều em sợ học toán, thiếu tự tin, dễ hiểu nhưng mau quên. Do các em là học sinh ở đầu cấp học nên các em còn mải chơi chưa tập trung chú ý, chưa hiểu sâu vấn đề, mau quên kiến thức. Một số em còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tính cũng như việc vận dụng vào giải toán còn hạn chế, dẫn đến việc làm bài kết quả chưa cao. Tình trạng để thời gian lãng phí còn nhiều, do học sinh làm bài xong trước (đối với những em hoàn thành tốt, các em có khả năng làm những bài tập ở mức độ cao hơn) hoặc không làm bài được (đây là những em tiếp thu bài còn chậm, khả năng vận dụng vào giải toán còn hạn chế, các bài tập này thường quá sức với các em). Chính vì vậy dẫn đến việc các em ngồi làm việc riêng trong lớp, ảnh hưởng đến hiệu quả tiết học. Việc thực hiện theo 10 bước học tập ở một số học sinh chưa thực sự hiệu quả, khả năng tự học của các em còn hạn chế. Nhiều học sinh chưa chủ động trong học tập, còn dựa dẫm vào các bạn trong nhóm, chưa tích cực thảo luận, chia sẻ, hợp tác trong nhóm. Đây cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng học tập giảm sút. Vào giữa học kì 1, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 3A với đề bài : Phần I: Trắc nghiệm ( 6 điểm) Em hãy khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng : Câu 1 : Mức 1 (0,5 điểm) : Số liền trước số 300 là : A. 290 B.299 C. 301 Câu 2 : Mức 1 (0,5 điểm) : Số hai trăm mười được là: A. 2010 B. 201 C.210 Câu 3 : Mức 1 (1 điểm) : Chữ số 9 trong số 973 có giá trị là : A. 90 B. 900 C. 9 Câu 4 : Mức 2 (1 điểm) : Ngày 30 tháng 4 là thứ sáu, ngày 1 tháng 5 là thứ : A. Thứ bảy B. Chủ nhật C.Thứ sáu Câu 5 : Mức 2 (1 điểm) : Trong một chuồng thỏ , người ta đếm được tất cả 20 thỏ. Số con thỏ trong chuồng là : A. 5 con B. 4 con C. 10 con Câu 6: M 3(1 điểm) : Mỗi hộp có 5 cái bánh. Hỏi 6 hộp có bao nhiêu cái bánh ? A. 11 cái B.26 cái C. 30 cái Câu 7 : Mức 3 (1 điểm) : Một quầy hàng có 18kg nho và đã bán được số nho đó. Hỏi quầy đó đã bán được mấy ki-lô-gam nho? A. 6kg B. 3kg C. 12kg Phần II : Tự luận (4 điểm) Câu 8 : Mức 2 (2 điểm) : Đặt tính rồi tính : 211 + 569 ; 701 - 490 ; 29 x 7 ; 63 : 3 Câu 9 : Mức 3 (1 điểm) : Khối lớp Ba có 250 học sinh. Khối lớp Hai có 225 học sinh. Hỏi khối lớp Ba nhiều hơn khối lớp Hai bao nhiêu học sinh ? Câu 10: Mức 4- (1 điểm) : Tìm x : X : 6 = 7 ( dư 5) Kết quả khảo sát như sau : Số HSKS HTT HT CHT SL TL SL TL SL TL 30 2 6,6 20 67 8 26,4 Qua bảng số liệu cho thấy, số học sinh xếp loại hoàn thành tốt chiếm tỉ lệ thấp 6,6%. Đây là những em nắm vững yêu cầu của đề bài, thuộc bảng nhân, chia, cộng, trừ ; biết thực hiện các phép tính, đọc viết số, biết tính thời gian, tìm thành phần chưa biết và biết vận dụng vào giải toán có lời văn. Ngoài ra các em biết trình bày rõ ràng sạch sẽ. Còn những bài xếp loại hoàn thành thường là những em tuy đã nắm được yêu cầu của đề bài nhưng làm bài còn nhầm lẫn giữa phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia hay quên không có nhớ sang hàng bên, viết câu lời giải chưa đúng, hoặc chưa viết đáp số. Nhiều bài làm trình bày còn chưa rõ ràng. Các bài làm này chiếm tỉ lệ khá cao 67%. Còn lại là các bài xếp loại chưa hoàn thành, đây là những em khả năng tiếp thu môn Toán còn chậm, không hứng thú học tập, chưa thuộc bảng cộng, trừ, nhân chia, chưa nhớ cách tìm thành phần chưa biết, chưa biết vận dụng để giải toán có lời văn. Nhiều bài các em đặt tính không thẳng cột nên dẫn đến tính sai, tỉ lệ học xếp loại chưa hoàn thành cũng khá cao 26,4%. Chính vì vậy mà việc thay đổi hình thức dạy học từ phần tổ chức hoạt động khởi động, ôn kiến thức cũ, hình thành kiến thức mới, điều chỉnh tài liệu, thiết kế các bài tập cho phù hợp với học lực của học sinh hay tổ chức viết câu chuyện vui Toán học nhằm để lôi cuốn, gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh là vô cùng cần thiết Xuất phát từ tình hình thực tế trên tôi đã tập trung nghiên cứu nội dung từng bài Toán lớp 3, thông qua đó để tìm ra những biện pháp giúp học sinh học tập tốt và có niềm đam mê, hứng thú học tập môn học này. 2.3. Các biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học tập môn Toán Lớp 3 : 2.3.1.Tổ chức tốt hoạt động khởi động : Hoạt động khởi động là 1 trong 5 bước tổ chức hoạt động dạy học theo mô hình trường học mới. Hoạt động này thường được tổ chức ở đầu mỗi tiết học, nhằm giúp học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có nội dung liên quan đến bài học mới. Hình thức tổ chức tổ chức hoạt động khởi động phải thật sôi nổi, hào hứng lôi cuốn học sinh vào bài mới. Có thể tổ chức hoạt động này thông qua hoạt động cá nhân, nhóm hay cả lớp sao cho vừa giúp các em huy động kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân, vừa xây dựng được ý thức hợp tác, tinh thần học tập lẫn nhau trong học sinh. Hoạt động khởi động trong tài liệu hướng dẫn học, thường được thiết kế bằng hình thức trò chơi. Bên cạnh đó hoạt động khởi động được thiết kế sẵn trong tài liệu giáo viên cần nghiên cứu thiết kế, bổ sung các trò chơi cho phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung kiến thức, nhằm thu hút học sinh tham gia. Thời gian tổ chức hoạt động khởi động không nên chiếm quá nhiều thời gian ( không quá 5 phút). Nội dung cần phải được giáo viên chuẩn bị chu đáo, giúp học sinh củng cố kiến thức đã học một cách tốt nhất. Dưới đây là một số cách thức tổ chức hoạt động khởi động trong môn Toán lớp 3 theo mô hình VNEN: 2.3.1.1. Tiểu phẩm vui : a. Tiểu phẩm : " Nhà Toán học Đô-rê-mon" *Ví dụ : Chu vi hình chữ nhật. Hình vuông ( Trang 82/Tập 1B/Hướng dẫn học Toán 3) - Mục tiêu : Giúp học sinh củng cố cách tính chu vi hình chữ nhật, hình vuông. - Chuẩn bị : Kịch bản để học sinh sắm vai, đạo cụ hóa trang, bảng con, phấn, bút dạ - Cách tiến hành : Hai học sinh đóng vai Đô-rê-mon, Nô-bi-ta, học sinh dưới lớp thực hiện theo yêu cầu của Đô-rê-mon, Nô-bi-ta Nội dung Tiểu phẩm: Nô-bi-ta : Mon ơi, hôm nay cô giáo giao nhiều bài tập quá mà toàn bài khó tớ làm không nổi. Đô-rê-mon : Lúc nào cậu cũng ngại khó, tớ chẳng bao giờ thấy cậu không than phiền. Đề bài như như nào cậu đọc cho tớ nghe xem nào? Nô-bi-ta : Một hình vuông có cạnh 8cm. Tính chu vi hình vuông. Đô-rê-mon : Trời đất ơi! Bài dễ như vậy mà cậu không làm nổi à? Muốn tính chu vi hình vuông ta lấy độ dài một cạnh rồi nhân với 4 cậu hiểu chưa? Nô-bi-ta : Tớ..tớ... nhớ ra rồi bằng 8 nhân 4 bằng 32cm đúng không Mon? Đô-rê-mon : Cậu làm đúng rồi đấy. Tại cậu cứ tự ti không tin vào bản thân mình. Bây giờ tớ đó cậu nhé : Một hình vuông có chu vi bằng 49cm thì cạnh của hình vuông bằng bao nhiêu? Nô-bi-ta : Tớ... tớ... không biết. Các bạn học sinh ơi các bạn làm giúp tớ với. Học sinh cả lớp : Làm và ghi kết quả vào bảng con Đô-rê-mon : Đây là đáp án của Mon : 7cm Đô-rê-mon : Cậu thấy các bạn lớp 3A học giỏi chưa. Cậu phải cảm ơn các bạn ấy đấy. Đô-rê-mon : Bây giờ tớ đó cậu tiếp nhé. Một hình chữ nhật có chiều dài 10cm, chiều rộng 5cm. Tính chu vi hình chữ nhật đó. Nô-bi-ta : Các bạn ơi các bạn cùng làm với mình nhé. Nô-bi-ta -Học sinh cả lớp : Cùng làm và ghi kết quả vào bảng con Đô-rê-mon : Nô-bi-ta và các bạn tuyệt quá. Đây là kết quả của Mon : 30cm Đô-rê-mon - Nô-bi-ta : Các bạn ơi, các bạn học cùng Đô-rê-mon, Nô-bi-ta có vui không? Chúc các bạn có một tiết học thật bổ ích. b. Tiểu phẩm : "Vui học cùng chú Cuội- chị Hằng." *Ví dụ : Ôn bảng nhân, chia - Mục tiêu : Giúp học sinh củng cố các bảng nhân, chia đã học. - Chuẩn bị : Kịch bản để học sinh sắm vai, đạo cụ hóa trang, bảng con, phấn, bút dạ - Cách tiến hành : Hai học sinh đóng vai chị Hằng, chú Cuội, học sinh dưới lớp thực hiện theo yêu cầu của chú Cuội, chị Hằng Nội dung Tiểu phẩm: Chú Cuội : Chú Cuội chơi trăng tình rằng tình rằng Chú Cuội, Cuội chơi trăng Ngàn năm ngàn năm vẫn thế Chơi trăng chơi trăng dông dài... Chị Hằng : Chào Cuội! Cuội đang làm gì mà vui vẻ thế? Chú Cuội : Chào chị Hằng xinh đẹp! Cuội đang đi chăn trâu và ngắm trăng đây. Chị Hằng : Ôi ! Con nào cũng to, cũng béo. Đàn trâu nhà Cuội có bao nhiêu con thế? Chú Cuội : Đàn trâu nhà Cuội là kết quả của phép nhân 5 x 8. Cuội đố chị Hằng đàn trâu nhà Cuội bao nhiêu con đấy? Chị Hằng : Dễ ợt! Bây giờ mình thử đó các bạn lớp 3A xem các bạn ấy có biết không? Chú Cuội - chị Hằng : Đố các bạn 5 nhân 8 bằng bao nhiêu? Học sinh cả lớp : Ghi kết quả vào bảng con. Chú Cuội - chị Hằng : Các em giỏi lắm. Đây là kết quả của Chú Cuội và chị Hằng : 5 x 8 = 40 Chú Cuội : Cuội đó các bạn tiếp nhé. 8 con trâu nhà Cuội có bao nhiêu cái chân? Học sinh cả lớp : Ghi kết quả vào bảng con. Chú Cuội - chị Hằng : Các bạn lớp 3A học giỏi ghê. Đây chính là kết quả của chú Cuội và chị Hằng: 32 Chú Cuội - chị Hằng : Các em ơi, các em cùng học với chú Cuội và chị Hằng có thích không? Chúc các em có một tiết học thật vui vẻ. Học sinh lớp 3A đóng tiểu phẩm "Vui học cùng chú Cuội - chị Hằng." 2.3.1.2. Trò chơi : a. Ví dụ : Bài 13 : Nhân số có hai chữ số với số có một chữ số( Trang 39/ Tập 1A) - Trò chơi : Kết bạn - Mục tiêu: Giúp học sinh củng cố cách nhân số có hai chữ số với số có một chữ số. - Chuẩn bị : Thẻ hoa ghi các phép tính như: 12 x4 ; 24 x 2; 16 x 4 ; 32 x 2; 13 x 4 ; 26 x 2; 15 x 4 ; 30 x 2 16x4 12x4 15x4 24x2 30x2 32x2 - Luật chơi : 8 học sinh xung phong tham gia chơi, cả lớp làm khán giả. Mỗi học sinh nhận được 1 thẻ có ghi các phép nhân. Khi có hiệu lệnh "Kết bạn" người chơi sẽ phải tìm người có thẻ hoa cùng với kết quả với mình để tạo thành nhóm. Hết thời gian nhóm nào kết bạn sai sẽ bị phạt theo yêu cầu của lớp đề ra. b. Ví dụ : Bài 25: Bảng đơn vị đo độ dài ( trang 6/ Tập 1B/Toán35) - Trò chơi : Tìm nhanh - Mục tiêu : Giúp học sinh củng cố về mối quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài. - Chuẩn bị : Các thẻ số ghi các số đo độ dài như sau : 1km 6 hm 7m 5cm 4m7dm 47dm 705cm 10hm 60m - Cách tiến hành : Học sinh thực hiện chơi theo nhóm. Từng thành viên trong nhóm lần lượt tìm hai thẻ có giá trị bằng nhau. Hết thời gian học sinh nào tìm được nhiều thẻ thì thắng cuộc. 2.3.1.3. Cùng ôn bài cũ : Cùng ôn bài cũ học sinh thực hiện với tinh thần "học vui- vui học" nhằm giúp học sinh vừ chơi vừa học, cùng nhau tự ôn tập, thực hành, tạo thêm hứng thú với môn Toán, góp phần hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất của học sinh Tiểu học như: giao tiếp, hợp tác, tự học, tự giải quyết vấn đề, tự đánh giá, sáng tạo, tự tin...đồng thời củng cố vững chắc kiến thức đã học trong chương trình. a. Ví dụ 1: Bài 21: Giảm đi một số lần.( Trang 65/Tập 1A/Toán 3) Bi : - Bốp ơi, gấp một số lên nhiều lần thì ta làm thế nào? Bốp : - Thì lấy số đó nhân với số lần thôi. Ví dụ như 6 gấp lên 4 lần được 24 vì 6 nhân với 4 bằng 24. Bi : Cũng không khó nhớ lắm nhỉ. Thế còn giảm đi một số lần thì làm thế nào? Bốp : - À, thế này nhé : nếu
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_hoc_tap_mon.doc