SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 6 trong bài luyện nói kể chuyện ở trường THCS Hoằng Đông

SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 6 trong bài luyện nói kể chuyện ở trường THCS Hoằng Đông

Ông bà ta xưa thường có câu: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”, hay “ Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Như vậy lời nói là phương tiện dùng để giao tiếp, là kĩ năng để diễn đạt, muốn diễn đạt được tốt cần phải có quá trình rèn luyện để giúp cho việc nói đạt hiệu quả cao.

 Trong văn chương cũng vậy, muốn viết một bài văn hay cần phải rèn luyện kĩ năng viết thông qua cách diễn đạt bằng ngôn ngữ vì vậy tiết "Luyện nói" là một tiết học vô cùng quan trọng đối với học sinh THCS, nhất là học sinh lớp 6. Qua tiết luyện nói, giáo viên luyện cho học sinh biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa, giáo viên còn rèn cho học sinh các mặt cụ thể về lời nói (phải rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói (phải vừa nghe, vừa cố gắng truyền cảm) và tư thế nói (phải mạnh dạn, tự tin giúp cho lời nói có sức thuyết phục hơn). Nói năng tốt có ý nghĩa rất quan trọng đối với các em không chỉ trong thời gian học ở trường mà còn trong suốt cuộc đời, đặc biệt là khi các em trưởng thành gắn với hoạt động giao tiếp thực tế. Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một việc làm khó, nhưng dù khó thế nào, yêu cầu kĩ năng nói cũng phải luôn luôn được coi trọng. Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.

Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách có hệ thống, theo những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày. Văn nói phát triển cho học sinh kĩ năng lựa chọn từ ngữ, kiểu câu mang phong cách khẩu ngữ. Tập làm văn nói rất có ích cho người đọc, người học, giúp học sinh có khả năng độc thoại theo đề tài thường gặp trong đời sống (như phát biểu ý kiến của mình về một vấn đề nào đó, hay trong thảo luận hoặc trong giao tiếp hằng ngày) [1]. Giáo viên quan tâm đến việc luyện nói cho học sinh là đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho các em thực hành giao tiếp. Với các em lớp 6, việc rèn kĩ năng nói là đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho các em vào việc thực hành giao tiếp, đây là việc làm vô cùng quan trọng. Giúp các em phát âm chuẩn, diễn đạt đúng ý định của bản thân thông qua các tiết luyện nói. Nếu đọc, nói không đúng, không rõ ràng thì quá trình giao tiếp sẽ gặp khó khăn; người nghe khó hiểu trọn vẹn được ý định của người nói. Nhiệm vụ đặt ra cho người giáo viên là để thực hiện các bài luyện nói cho các em cần lựa chọn phương pháp nào? Biện pháp nào giúp các em mạnh dạn hơn trước tập thể lớp, trước thầy cô và trước mọi người xung quanh, biết diễn đạt được những điều mình muốn nói. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để qua việc dạy các bài luyện nói theo sách giáo khoa Ngữ Văn để góp phần dạy các em giao tiếp hàng ngày của cuộc sống. Những trăn trở này chính là lí do tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 6 trong bài luyện nói kể chuyện” ở trường THCS Hoằng Đông.

 

doc 12 trang thuychi01 79229
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 6 trong bài luyện nói kể chuyện ở trường THCS Hoằng Đông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 Nội dung
Trang
Mục lục .
1
1. Mở đầu ...... 
2
1.1. Lí do chọn đề tài.................
2
1.2. Mục đích nghên cứu....... 
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu ...........
3
1.4. phương pháp nghiên cứu....
3
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm ...
3
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.... . .  
4
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng ...
4
2.4 Hiệu quả thực hiện .. 
8
3. Kết luận, kiến nghị. .. 
9
Tài liệu tham khảo 
11
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Ông bà ta xưa thường có câu: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”, hay “ Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Như vậy lời nói là phương tiện dùng để giao tiếp, là kĩ năng để diễn đạt, muốn diễn đạt được tốt cần phải có quá trình rèn luyện để giúp cho việc nói đạt hiệu quả cao. 
 	Trong văn chương cũng vậy, muốn viết một bài văn hay cần phải rèn luyện kĩ năng viết thông qua cách diễn đạt bằng ngôn ngữ vì vậy tiết "Luyện nói" là một tiết học vô cùng quan trọng đối với học sinh THCS, nhất là học sinh lớp 6. Qua tiết luyện nói, giáo viên luyện cho học sinh biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa, giáo viên còn rèn cho học sinh các mặt cụ thể về lời nói (phải rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói (phải vừa nghe, vừa cố gắng truyền cảm) và tư thế nói (phải mạnh dạn, tự tin giúp cho lời nói có sức thuyết phục hơn). Nói năng tốt có ý nghĩa rất quan trọng đối với các em không chỉ trong thời gian học ở trường mà còn trong suốt cuộc đời, đặc biệt là khi các em trưởng thành gắn với hoạt động giao tiếp thực tế. Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một việc làm khó, nhưng dù khó thế nào, yêu cầu kĩ năng nói cũng phải luôn luôn được coi trọng. Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách có hệ thống, theo những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày. Văn nói phát triển cho học sinh kĩ năng lựa chọn từ ngữ, kiểu câu mang phong cách khẩu ngữ. Tập làm văn nói rất có ích cho người đọc, người học, giúp học sinh có khả năng độc thoại theo đề tài thường gặp trong đời sống (như phát biểu ý kiến của mình về một vấn đề nào đó, hay trong thảo luận hoặc trong giao tiếp hằng ngày) [1]. Giáo viên quan tâm đến việc luyện nói cho học sinh là đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho các em thực hành giao tiếp. Với các em lớp 6, việc rèn kĩ năng nói là đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho các em vào việc thực hành giao tiếp, đây là việc làm vô cùng quan trọng. Giúp các em phát âm chuẩn, diễn đạt đúng ý định của bản thân thông qua các tiết luyện nói. Nếu đọc, nói không đúng, không rõ ràng thì quá trình giao tiếp sẽ gặp khó khăn; người nghe khó hiểu trọn vẹn được ý định của người nói. Nhiệm vụ đặt ra cho người giáo viên là để thực hiện các bài luyện nói cho các em cần lựa chọn phương pháp nào? Biện pháp nào giúp các em mạnh dạn hơn trước tập thể lớp, trước thầy cô và trước mọi người xung quanh, biết diễn đạt được những điều mình muốn nói. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để qua việc dạy các bài luyện nói theo sách giáo khoa Ngữ Văn để góp phần dạy các em giao tiếp hàng ngày của cuộc sống. Những trăn trở này chính là lí do tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 6 trong bài luyện nói kể chuyện” ở trường THCS Hoằng Đông.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với các em lớp 6, việc rèn kĩ năng nói là đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho các em vào việc thực hành giao tiếp, đây là việc làm vô cùng quan trọng. Giúp các em phát âm chuẩn, diễn đạt đúng ý định của bản thân thông qua các tiết luyện nói. Nếu đọc, nói không đúng (hay không rõ ràng) thì quá trình giao tiếp sẽ gặp khó khăn, khó có thể đạt được như mong muốn. Người nghe khó hiểu trọn vẹn được ý định của người nói. 
Đặc biệt việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh, theo tôi còn là việc tháo gỡ vướng mắc, xóa đi mặc cảm ngại học văn của một số học sinh. Thầy cô phải suy nghĩ, tìm tòi, thâm nhập, hiểu được những khó khăn, vướng mắc mà các em lâu nay chưa làm được. Thầy cô hãy động viên, nâng niu những gì mà các em tạo được với tính kiên trì nhất.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là đối tượng chính. Nhưng để đạt hiệu quả cao, vấn đề đặt ra còn là các kĩ năng khác như: tìm hiểu đề, tìm ý; dựng đoạn trong văn kể chuyện; diễn đạt bằng lời văn, đoạn văn trong bài văn nói.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: trên cơ sở lí thuyết chung về đặc trưng bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông, đặc biệt là dựa vào đặc trưng của kiểu bài văn nói thực hiện trong một tiết học.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: khảo sát thực tế bài văn nói cho đối tượng học sinh khối 6 tại nhà trường. Ngoài ra có sự thu thập thông tin, tham khảo thêm kinh nghiệm của đồng nghiệp trong trường và ngoài nhà trường.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: cụ thể qua các bài luyện nói của học sinh khối 6 qua các mặt cụ thể về yêu cầu cần đạt khi thực hiện tiết học.
- Phương pháp so sánh: từ việc điều tra, khảo sát thực tế để có số liệu đến tiến hành xử lí số liệu để có phép so sánh bằng con số cụ thể. Thông qua đó để thấy được tác dụng thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận: 
Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường để rồi từ đó các em nói ra, viết ra những điều mà các em đã học, đã cảm nhận trong cuộc sống xung quanh thường ngày; tự các em tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “ bé con” giá trị? Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi thầy cô giáo đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và có hiệu quả nhất cho riêng mình.
 	Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy rằng, chương trình Ngữ văn lớp 6 so với chương trình tiểu học mà các em đã làm quen và có nhiều những khái niệm còn trừu tượng. Giữa học và làm là cả một thao tác, một khoảng cách khó. Riêng kĩ năng luyện nói đòi hỏi các em phải cố gắng nhiều hơn, biết vận dụng từ lí thuyết vào thực hành giúp cho vốn từ của các em giàu hơn, các em có thể tự tin hơn trong giao tiếp. Việc rèn kĩ năng luyện nói chính là giúp các em phát triển tốt ngôn ngữ Tiếng Việt trong thực hành giao tiếp. 
Trong chương trình của sách giáo khoa hiện nay đặc biệt chú trọng và nhấn mạnh "Trọng tâm của việc rèn luyện kĩ năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học"[2]. Người giáo viên phải phát huy được tính tích cực trong học tập cho học sinh thông qua việc luyện nói chính là cách để các em rèn luyện ngôn ngữ, cách diễn đạt trước tập thể và trước đám đông tạo nên tâm thế tự tin cho các em.
Qua việc trang bị và rèn luyện các tri thức và kĩ năng Ngữ văn, môn học này góp phần quan trọng vào mục tiêu chung của nhà trường phổ thông: hình thành, phát triển nhân cách, tư tưởng và tâm hồn con người. Qua mỗi giờ Ngữ văn, người học có ý thức sống ngày một tốt hơn, đẹp hơn, đúng như nhà văn Nga, M. Gorơki đã viết: “ Mỗi cuốn sách là một bậc thang nhỏ, giúp tôi tách khỏi con thú để tiến dần đến với con người”[3].
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Học sinh ở trường THCS Hoằng Đông là một xã ở xa trung tâm, các em đều xuất thân và sinh sống ở vùng nông thôn, ít có dịp đi đây, đi đó để mở rộng tầm nhìn nên thường có tâm lí e dè, ngại nói hoặc không tự tin khi nói trước đông người. Không những thế ngoài giờ học, các em quen nói tự do, còn trong giờ tập nói, các em phải trả lời, phải suy nghĩ, trình bày lời nói của mình dưới sự giám sát của giáo viên.
Học sinh phát âm chưa tốt, nói sai nhiều, do ảnh hưởng của từ ngữ địa phương. Khi trả lời học sinh có thói quen lặp lại từ, diễn đạt vụng về, thiếu mạch lạc, tác phong chưa mạnh dạn, không dựa vào đề cương để nói mà thường là đọc.
Vốn từ ngữ ở học sinh còn hạn chế nên các em lúng túng trong việc diễn đạt, nhiều em hiểu đề nhưng khi vận dụng vào thực hành các em không diễn đạt được vì nghèo vốn từ. 
Thời gian cho một tiết luyện nói không đủ để giáo viên có thể cho số lượng học sinh lên nói được nhiều, vì lớp có sĩ số học sinh khá đông cho yêu cầu của một tiết luyện nói.
 Sách giáo viên chỉ mới đưa ra yêu cầu chung chung cho tiết học, việc áp dụng khi tổ chức giờ dạy cụ thể cho đối tượng học sinh trong trường còn nhiều khó khăn.
Sách chuẩn kiến thức kĩ năng chưa có định hướng rõ ràng trong việc giúp người dạy tổ chức các tiết luyện nói.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để hoàn thành những định hướng đã đề ra, dựa trên thực tế giảng dạy của mình, tôi xin trình bày những biện pháp chính đã áp dụng như sau:
- Chương trình sách giáo khoa đã đổi mới theo khuynh hướng quan tâm tới việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh, phân phối chương trình Ngữ văn 6 đều có tiết luyện nói ở cả hai học kì, cụ thể ở học kì I gồm các tiết:
+ Tiết 29: Luyện nói kể chuyện
+ Tiết 43: Luyện nói kể chuyện
- Dạy tiết luyện nói phải kết hợp lí thuyết và thực hành, coi trọng thực hành về nói. Muốn cho học sinh nói được nhiều, giáo viên phải chuẩn bị từ khi ra đề, hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà. Dạy luyện nói phải gây hứng thú học tập của học sinh, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Giờ luyện nói là giờ thể hiện cá tính, là giờ học sinh được làm chủ mình hơn cả, giáo viên đừng gò bó các em, đừng vội vàng phê phán các biểu hiện chưa tốt của các em, vấn đề là phải tạo những điều cần và đủ để các em nói.
- Dạy một tiết luyện nói theo tôi cần phải kết hợp việc rèn luyện kĩ năng với việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, tư duy cho học sinh; giáo dục lòng yêu mến tự hào về tiếng Việt, tự hào về dân tộc ta. Dạy luyện nói không chỉ dạy lời nói, dáng điệu nói... mà phải dạy chiều sâu của tâm hồn, tư tưởng của học sinh mà cụ thể hơn là dạy nếp sống có văn hóa, nói năng tốt, chống thói quen nói năng xấu đang có nguy cơ lan tràn trong học sinh hiện nay như nói tục, nói trống không, nói tiếng lóng ...
Để giúp cho các em luyện nói bài kể chuyện được tốt theo tôi cần áp dụng các biện pháp sau: 
Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn việc chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh:
 Muốn một giờ luyện nói đạt kết quả tốt, ngoài việc hướng dẫn cho học sinh đi đúng yêu cầu của một giờ luyện tập trên lớp thì việc cho các em chuẩn bị bài ở nhà cũng rất quan trọng. Muốn các em chuẩn bị bài tốt, có chất lượng thì sự chuẩn bị, hướng dẫn của giáo viên cũng phải chu đáo. Trong sách giáo khoa thường có một số đề bài để giáo viên lựa chọn, vậy nên cần lựa chọn đề bài nào cho phù hợp, và có hiệu quả cao cho đối tượng học sinh của mình. khi đã chọn được đề phù hợp rồi, giáo viên phải phân việc cụ thể cho từng đối tượng học sinh (có thể phân theo dãy bàn, tổ, nhóm) để học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng, tránh đối phó qua loa, đại khái.
Ví dụ: Trong tiết 43 luyện nói kể chuyện ở lớp 6 có đề bài: kể về một chuyến 
ra thành phố.
Với đề bài này dàn ý có thể lập như sau:
a, Mở bài
Lí do ra thành phố
b, Thân bài
- Lòng háo hức khi được ra thành phố
- Những điều tai nghe, mắt thấy ở thành phố
+ Quang cảnh chung của thành phố( xe cộ, nhà cửa, người đi lại)
+ Quang cảnh của một khu phố cụ thể đã đi qua.
+ Cảnh một siêu thị hiện đại, sang trọng, người mua bán tấp nập
+ Cảnh một công viên đẹp đẽ, trẻ em đông vui nhộn nhịp.
+ Em được chụp ảnh kỉ niệm, mua sách vở, đồ dùng học tập.
c. Kết bài: 
Chia tay- cảm xúc về chuyến đi
Giáo viên phải phân nhóm cho học sinh( mỗi nhóm từ 4-5 em) như sau:
+ Nhóm chuẩn bị phần mở bài 
+ Nhóm chuẩn bị phần kết bài 
+ Sáu nhóm chuẩn bị phần thân bài với sáu ý
( Giáo viên yêu cầu học sinh chia ý lớn thứ hai phần thân bài làm năm ý nhỏ)
Biện pháp thứ hai: Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của tiết dạy:
 Chúng ta phải hiểu rằng đây là tiết giúp học sinh "luyện nói" thì học sinh phải được nói. Phải thực sự luyện trên lớp cho từng em được nói. Trước khi luyện nói theo tôi giáo viên phải nêu thật rõ yêu cầu của tiết cần ghi tóm tắt lên bảng. Khi học sinh lên bảng trình bày, giáo viên phải đứng ở vị trí cuối lớp để nắm bắt và nhận xét đúng khả năng thành tích đạt được của các em trong quá trình luyện nói ( trình bày một vấn đề bằng miệng). Đồng thời cần định hướng cho học sinh đi đúng yêu cầu, nói chứ không phải là đọc. Đã nói thì phải vận dụng đúng ngôn ngữ, nói thể hiện rõ nhất là ngữ điệu trong sử dụng thành văn. Ngoài ra, các em còn thể hiện qua cử chỉ, nét mặt, sắc thái tình cảm, thái độ khi trình bày.
Ví dụ: Kể về một chuyến đi thăm thành phố ( Hoặc kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử)
Khi cho học sinh luyện nói đề bài này, giáo viên cần phải cho các em xác định và nắm vững các bước làm một bài văn tự sự, cần cho học sinh xác định được phần tìm hiểu đề, tìm ý; giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh định hướng nội dung bài luyện nói. Chẳng hạn: đề yêu cầu các em làm gì? Với đề này các em cần trình bày những nội dung nào? Bố cục của bài luyện nói gồm mấy phần? Sau đó giáo viên sẽ chỉnh sửa lại cho phù hợp và yêu cầu học sinh trình bày bài luyện nói của mình. 
Biện pháp thứ ba: Cả lớp đều tham gia luyện nói:
- Làm thế nào để cả lớp tham gia luyện nói theo đúng nghĩa của nó? Đó là yêu cầu quan trọng của tiết dạy. Thường thì những giờ luyện nói như thế này giáo viên không khéo léo thì một số em lơ là, không tham gia luyện tập, ỷ lại chỉ chờ kết quả của các thành viên khác trong nhóm mà không chịu tư duy. Vì vậy tôi cần phải tìm ra những biện pháp tốt nhất mà trong đó không thể bỏ qua việc các em tham gia nhận xét, đánh giá sự trình bày của bạn. Vấn đề đặt ra là giáo viên phải hướng cho học sinh biết đánh giá thế nào là đúng. Tôi có thể yêu cầu các em như sau: 
Ví dụ:
? Em hãy nhận xét phần trình bày của bạn? Theo em bạn nói đã đúng nội dung bài hay chưa? (bạn đọc hay nói?) Phần trình bày nội dung có cần bổ sung thêm những ý nào không? 
? Cử chỉ, thái độ, giọng điệu của bạn trình bày đã phù hợp hay chưa? (cử chỉ, thái độ, giọng điệu biểu hiện như thế nào?)
Muốn đạt được những yêu cầu này, trước hết tôi phải đặt ra những yêu cầu đối với các em như: biết nhận xét đúng, sai của bạn tức là mình đã có sự chuẩn bị bài ở nhà hoặc tôi có thể khuyến khích các em về những lời khen đã có sự chuẩn bị bài tốt hoặc có thể dùng phần thưởng bằng điểm số hoặc quà cho cả em được tham gia nói và cả em tham gia nhận xét.
Biện pháp thứ tư: Rèn luyện nội dung, hình thức và tác phong nói.
 Khi dạy bài này, giáo viên có thể cho các em được xem trên máy chiếu một bài văn nói làm mẫu. Sau đó , tổ chức cho học sinh xung phong trình bày các vấn đề hoặc có thể gọi các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu, kém trình bày. Giáo viên căn cứ vào bài nói của học sinh để rút kinh nghiệm cho các em lần sau nói tốt hơn lần trước.
* Rèn luyện nội dung nói:
- Học sinh nói phải có nội dung, nói có suy nghĩ, điều chỉnh kịp thời nội dung để đáp ứng yêu cầu người nghe.
- Nói theo đề cương mà nội dung đã chuẩn bị.
- Nói tập trung vào vấn đề, chọn dẫn chứng tiêu biểu.
- Điều chỉnh nội dung nói: nhắc lại điều người nghe chưa hiểu, lướt những điều người nghe đã rõ.
- Kết hợp đúng mực nội dung và ngữ điệu, không để cho ngữ điệu lấn át nội dung.
Ví dụ: Kể về một chuyến ra thăm thành phố
Với đề bài này, các em cần phải trình bày được :
a, Mở bài
- Lời chào
- Lí do ra thành phố
b, Thân bài
- Lòng háo hức khi được ra thành phố
- Những điều tai nghe, mắt thấy ở thành phố
+ Quang cảnh chung của thành phố( xe cộ, nhà cửa, người đi lại)
+ Quang cảnh của một khu phố cụ thể đã đi qua.
+ Cảnh một siêu thị hiện đại, sang trọng, người mua bán tấp nập.
+ Cảnh một công viên đẹp đẽ, trẻ em đông vui nhộn nhịp
+ Em được chụp ảnh kỉ niệm, mua sách vở, đồ dùng học tập.
c. Kết bài: 
- Chia tay- cảm xúc về chuyến đi
- Cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe.
* Rèn luyện hình thức và tác phong nói:
- Nắm vững đề tài cần nói, huy động nhanh vốn từ đúng, từ hay, đặt câu đúng và hay, cách dựng đoạn.
- Bài nói phải rõ ràng, mạch lạc, phát âm chuẩn, tránh dùng từ ngữ địa phương.
- Vận dụng nét mặt, cử chỉ, dáng điệu phù hợp với nội dung nói.
- Có thái độ khiêm tốn, chân tình với người nghe, quán xuyến theo dõi thái độ người nghe.
+ Tạo cho các em có nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ:
Khi tiếp xúc với các em lần đầu tiên, tôi thấy cần thiết lập tốt mối quan hệ, giúp học sinh thấy được sự gần gũi, thân tình nơi giáo viên điều này là cơ sở giúp học sinh dễ dàng bộc lộ với giáo viên hơn trong những giờ sau. Giáo viên có thể làm quen với các em bằng cách giới thiệu về mình cũng là cơ sở để các em theo đó mà tự giới thiệu bản thân về những điều đơn giản như họ, tên, tuổi, sở thích ... Điều này không kém phần quan trọng, vì nếu làm được như vậy thì giáo viên đã góp phần vào giúp học sinh bắt đầu tập làm quen với việc phát biểu miệng.
+ Phát huy kĩ năng nói trong các giờ học, kết hợp với việc rèn luyện các kĩ năng khác:
Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kĩ năng nói cho học sinh thông qua những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích tư duy và sự phản xạ của học sinh. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp để tập cho các em biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự tin ... Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát biểu suy nghĩ trong khi phát biểu và cả trong khi thảo luận, ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hoàn toàn chính xác. Bên cạnh đánh giá việc trình bày của học sinh, giáo viên cũng nên lưu ý cho học sinh những lỗi cần tránh về chính tả và hướng c edẫn cám nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn cho người nghe. Do đó giáo viên phải giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung bài nói, bao gồm các vấn đề:
- Nói cái gì? (Xác định đề tài)
- Nói với ai? (Xác định đối tượng giao tiếp)
- Nói trong hoàn cảnh nào? (Xác định hoàn cảnh giao tiếp)
- Nói như thế nào? (Cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe)
Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói, tránh đọc lại hoặc thuộc lòng để đọc lại bài văn chi tiết đã chuẩn bị.
Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và thuyết phục người nghe (thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt). Tác phong tự nhiên, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng mọi người. Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu. Có lời chào khi kết thúc bài nói.
+ Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói:
Trước mỗi giờ luyện nói, tôi cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước khoảng một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay chia lớp từ 4 đến 6 nhóm, mỗi nhóm một đề tài (nếu tiết học có đề tài nhiều).
Vào giờ học, tôi cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để chọn đại diện lên nói, nên hướng cho học sinh có thái độ cùng nhau hợp tác, thời gian thảo luận là 5 phút.
Không khí của giờ luyện nói nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài nói của mình. Để tạo hứng thú cho học sinh học tập tôi đã đánh giá khen ngợi, khuyến khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói tốt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục của bản thân, đồng nghiệp, nhà trường.
Trước khi chưa áp dụng các biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh, tôi đã kiểm tra thái độ các em. Tôi nhận thấy các em cũng rất thích học môn học này và học cũng rất sôi nổi, nhưng vận dụng được luyện nói, nói hai chiều, nói hay, nói biể

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop_6_tro.doc