SKKN Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 5

SKKN Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 5

 Như chúng ta đã biết “Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của loài người”. Vì vậy để phát triển tốt ngôn ngữ cho học sinh là cơ sở để con người hoàn thiện và phát triển nhân cách - đặc biệt kỹ năng đọc. Đây là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp.

 Trong đó, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành năng lực ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện ở bốn dạng hoạt động: nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một hoạt động ngôn ngữ là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó( ứng với hình thức đọc thành tiếng) , là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức đơn vị ngữ nghĩa không có âm thanh( đọc thầm) . Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, tư tưởng tình cảm của các thế hệ trước và người đương thời phần lớn được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người. Biết đọc, con người hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, nảy nở những ước mơ tốt đẹp , khơi dậy được năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo và bồi dưỡng tâm hồn. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập . Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập, tạo điều kiện cho học sinh khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực tới ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc.

 Như vậy dạy Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng giữ một nhiệm vụ quan trọng. Giúp các em hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em tình yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách có lôgic cũng như biết tư duy có hình ảnh và tích lũy một vốn kiến thức văn học đáng kể sau này cho các em.

. Phân môn Tập đọc còn được kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác của chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn được học, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động , được luyện tập về chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn.

 

doc 21 trang thuychi01 7831
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU
2
 1. Lí do chọn đề tài
2
 2.Mục đích nghiên cứu
3
 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 a) Đối tượng nghiên cứu
 b) Phạm vi nghiên cứu
3
 4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. PHẦN NỘI DUNG
3
 1. Cơ sở lí luận.
3
 a) Cơ sở khoa học .
 b) Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
3
 5
 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
 a) Về phía học sinh
 b) Về phía giáo viên
 c) Do các yếu tố khác
7
8
9
 3. Một số biện pháp giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm
8
 3.1)Chuẩn bị cho việc dạy - đọc diễn cảm
 - Đối với giáo viên
 - Đối với học sinh
8
 3.2). Luyện đọc đúng tiếng, từ, câu
 - Tìm hiểu nguyên nhân HS đọc sai tiếng, từ, câu
 - Biện pháp
10
 3.3). Luyện đọc thầm (đọc hiểu bài)
12
 3.4) Luyện đọc diễn cảm
 - Yêu cầu đọc diễn cảm
 - .Biện pháp
14
 4. Kết quả đạt được. 
18
III. KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ
 1. Kết luận.
 2. Kiến nghị.
18
 18
 19
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
20
 I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
 Như chúng ta đã biết “Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của loài người”. Vì vậy để phát triển tốt ngôn ngữ cho học sinh là cơ sở để con người hoàn thiện và phát triển nhân cách - đặc biệt kỹ năng đọc. Đây là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. 
 Trong đó, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành năng lực ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện ở bốn dạng hoạt động: nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một hoạt động ngôn ngữ là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó( ứng với hình thức đọc thành tiếng) , là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức đơn vị ngữ nghĩa không có âm thanh( đọc thầm) . Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, tư tưởng tình cảm của các thế hệ trước và người đương thời phần lớn được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người. Biết đọc, con người hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, nảy nở những ước mơ tốt đẹp , khơi dậy được năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo và bồi dưỡng tâm hồn. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập . Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập, tạo điều kiện cho học sinh khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực tới ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc.
 Như vậy dạy Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng giữ một nhiệm vụ quan trọng. Giúp các em hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em tình yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách có lôgic cũng như biết tư duy có hình ảnh và tích lũy một vốn kiến thức văn học đáng kể sau này cho các em. 
. Phân môn Tập đọc còn được kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác của chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn được học, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động , được luyện tập về chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn.
 Bởi vậy phân môn tập đọc ở Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng có hai yêu cầu cơ bản là.
 - Rèn kĩ năng tập đọc.
 - Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn.
 Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau, cảm thụ tốt giúp việc đọc đúng, diễn cảm tốt. Ngược lại đọc đúng và diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu sắc. Học sinh có đọc đúng, đọc thông thạo và trên cơ sở đã hiểu nội dung câu thơ, câu văn, đoạn thơ, đoạn văn thì các em mới thể hiện được cảm xúc, tức là đã hiểu tường tận về nội dung và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài . Điều đó khẳng định rằng trong tiết tập đọc lớp 5, việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh là rất cần thiết. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập đọc, tôi đã chọn “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 5” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
- Khảo sát năng lực đọc của học sinh lớp 5 để tìm ra nguyên nhân và giải pháp rèn kĩ năng đọc qua mỗi tiết tập đọc. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a) Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp 5 và đặc biệt là học sinh lớp 5B , Trường tiểu học Minh Thọ
- Một số biện pháp rèn đọc cho HS lớp 5. 
b) Phạm vi nghiên cứu: Phân môn Tập đọc lớp 5, tập trung vào việc rèn kĩ năng đọc đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Minh Thọ.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm đọc các tài liệu, giáo trình có nội dung rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm cho học sinh.
b) Phương pháp điều tra: Dự giờ, trao đổi với các bạn đồng nghiệp,học sinh về những khó khăn cũng như những thuận lợi khi thực hiện dạy và học trong các giờ học Tập đọc trên lớp.
c) Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức cho học sinh thực hiện các yêu cầu của giải pháp đề ra, kiểm tra kết quả và tác dụng của giải pháp khi tiến hành .
d) Phương pháp so sánh, đối chiếu : Tổ chức so sánh, đối chiếu kết quả trước và sau khi thực hiện giải pháp để thấy được kết quả cũng như hạn chế nhằm tìm ra hướng điều chỉnh, khắc phục hợp lí.
 II. PHẦNNỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
a) Cơ sở khoa học.
- Tâm sinh lý của việc dạy đọc.
 Đọc là một hoạt động tiếp nhận bằng mắt , hoạt động của các cơ quan phát âm , các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì đã đọc. Việc đọc không thể tác rời khỏi việc chiếm lĩnh một tác phẩm văn học . Việc này chỉ đạt được thông qua con đường luyện giao tiếp có ý thức. Một phương tiện luyện tập quan trọng cũng đồng thời là một mục tiêu phải đạt tới trong việt chiếm lĩnh ngôn ngữ chính là việc
đọc ( đọc thành tiếng và đọc thầm).Thứ hai, đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm sử dụng bộ mã chữ - nghĩa, mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu được nội dung những gì đã học. 
 - Về ngôn ngữ học và văn học của việc dạy đọc.
 Phương pháp dạy tập đọc dựa trên cơ sở của ngô ngữ học. Nó liên quan mật thiết vơi một số vấn đề của ngôn ngữ như: chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu( thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của từ, của câu, đoạn ,bài, vấn đề dấu câu , các kiểu câu....cường độ, cao đô., tốc độ. Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm, đọc hiểu phải dựa vào văn bản tốt ( chính xác, đúng đắn, có tính thẩm mĩ, dựa trên đặc điểm ngôn ngữ, phong cách, chức năng, theo loại văn bản...) , đặc biệt theo nội dung bài đọc.
 Học sinh lớp 5 được học chương trình tiểu học mới ở tất cả các môn. Trong đó môn Tiếng Viêt gồm 10 đơn vị học, môi đơn vị học ứng với một chủ điểm học trong 3 tuần (riêng chủ điểm Vì hạnh phúc con người được học trong 4 tuần), các chủ điểm học tập xoay quanh những vấn đề lớn đặt ra cho đất nước, dân tộc và cả loài người. Nội dung, cấu trúc phân môn Tập đọc lớp 5 gồm 66 tiết/ năm, mỗi tuần có hai tiết. 40 bài văn xuôi thuộc loại hình nghệ thuật, báo chí, khoa học, 2 vở kịch (trích), 18 bài thơ. Các bài Tập đọc gồm các chủ đề: " Việt Nam- Tổ quốc em ", " Cách chim hoà bình", " Con người với thiên nhiên", "Giữ lấy màu xanh", "Vì h ạnh phúc con người", "Người công dân", "Vì cuộc sống thanh bình", "Nhớ nguồn", "Nam và nữ", "Những chủ nhân tương lai". 
- Yêu cầu của môn tập đọc lớp 5 là:
 Học hết lớp 5, HS cần đọc rành mạch, lưu loát bài văn, bài thơ( khoảng 150 tiếng/ 1 phút), đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn; hiểu nội dung ý nhĩa bài đọc. Giáo viên cần sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động luyện tập cũng cố kỹ năng đọc ( đọc thành tiếng và đọc thầm) , bước đầu học sinh đọc diễn cảm các văn bản có tính nghệ thuật , biết đọc với giọng phù hợp với các văn bản khác , học sinh đọc cá nhân, đọc theo cặp , nhóm, phân vai và đọc thầm tìm hiểu nội dung bài và có cơ sở để luyện đọc diễn cảm , phát huy cho học sinh những nết riêng, sáng tạo diễn cảm và năng lực đọc với từng loại văn bản. 
 Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của đọc: đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức (thông qua đó hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc, đọc thành tiếng và đọc thầm, chúng được rèn luyện đồng thời hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện trong một kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Đọc đúng là tiêu đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được.
 Bài Tập đọc lớp 5 nhằm mục đích: Tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc cho HS: đọc trơn, đọc thầm với tốc độ nhanh hơn, nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm. Ở lớp 5, HS được rèn kĩ năng đọc hiểu ở mức: Nhận biết được đề tài hoặc chủ đề đơn giản của bài; nắm được dàn ý của bài, biết tóm tắt đoạn, bài; hiểu được ý nghĩa của bài; biết phát hiện và bước đầu biết nhận định về giá trị của một số nhân vật, hình ảnh trong các bài đọc có giá trị văn chương, giá trị nghệ thuật; làm quen thao tác đọc lướt để nắm ý hoặc chọn ý. Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình thành nhân cách con người mới .
b) Một số khái niệm cơ bản của sáng kiến nghiên cứu:
 - Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc được những văn bản, văn chương hoặc các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc thể hiện kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng, để biểu đạt ý nghĩ và tình cảm của tác giả đã gửi gắm trong bài đọc đồng thời biểu hiện được sự thông hiểu cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát.
 Đọc diễn cảm chỉ có thể có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn cảm yêu cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm phù hợp với từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp kiểu câu, thể loại đọc có cảm xúc cao. Biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm gợi tả, phân biệt lời nhân vật. Để đọc diễn cảm, người ta phải làm chủ chỗ ngắt giọng. ở đây muốn nói đến kĩ thuật ngắt giọng biểu cảm, làm chủ tốc độ. Khi nói đến đọc diễn cảm, người ta thường nói về một số kĩ thuật như ngắt giọng biểu cảm, sử dụng tốc độ, cường độ, cao độ trường độ với ý nghĩa cảm xúc của bài.
 Để đạt được mức lí tưởng hướng dẫn cách đọc toàn bài bằng những kí tự kèm văn bản đọc như các kí tự âm nhạc thì còn cần một quá trình nghiên cứu dài lâu. Ở đây chúng ta chủ đề vào xác định sự tương hợp giữa các thông số âm thanh với ý nghĩa cảm xúc để hướng đến làm chủ những thông số âm thanh phổ biến cho đúng ý tình cảm các tác phẩm - đọc diễn cảm.
 Để đọc diễn cảm, người ta phải làm chủ được chổ ngắt giọng, ở đây muốn nói đến kĩ thuật ngắt giọng biểu cảm, làm chủ được tốc độ, làm chủ được cường độ giọng (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay hạ giọng) và làm chủ tốc độ.
- Ngắt giọng biểu cảm: Là chỗ ngừng lâu hơn bình thường hoặc chỗ ngừng không do lôgíc ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng lôgíc là chỗ dừng để các nhóm từ trong câu ngắt giọng lôgíc hoàn toàn phụ thuộc vào ý nghĩa của quan hệ giữa cụm từ.
 Các dấu ngắt câu cũng là sự biểu hiện của ngắt giọng logíc cũng có khi sự ngừng giọng thể hiện một sự ngập ngừng này, người nghe đoán được có điều gì đó chưa được nói ra.
 Ngắt giọng biểu cảm là phương tiện tác động đến người nghe. Ngắt giọng lôgíc thiên về trí tuệ, ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc. Ngắt giọng biểu cảm là những chỗ ngừng, chỗ lắng, sự im lặng có tác dụng truyền cảm tập trung sự chú ý của người nghe và chỗ ngừng góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao.
 Ngắt giọng đúng và hay là đích của dạy học và cũng là một trong những phương tiện để dạy tiếp nhận, chiếm lĩnh văn bản được đọc.
- Tốc độ: Tốc độ đọc chi phối sự diễm cảm có ảnh hưởng đến việc thể hiện ý nghĩa, cảm xúc. Trước khi nói đến việc làm như tốc độ để đọc diễn cảm thì cần nhắc lại rằng trong những kỹ năng cần luyện cho học sinh đọc nhanh là một phẩm chất của đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng.
 Tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc cho người khác nghe hiểu kịp được. Vì vậy đọc nhanh không phải là đọc liến thoáng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. Khi nói, đọc trùng với tốc độ của lời nói thì ta chấp nhận tốc độ đọc phụ thuộc vào nội dung bài đọc. Tốc độ đọc truyện kể phải nhanh hơn đọc thơ trữ tình vì đọc thơ trữ tình cần thời gian để bộc lộ cảm xúc.
 Độ dài của câu cũng chi phối vào tốc độ đọc, ở những bài có câu ngắn, câu dài thì những câu ngắn được nén lại và phải được với nhịp nhanh, gấp gáp hơn, nhất là khi đó những câu điệp cú pháp, những câu có tính liệt kê. Những câu dài đọc nhịp trải dài ra thì mới thể hiện đúng cảm xúc.
 Nhiều khi không phải chỉ là đọc chậm, mà phải dùng cả trường độ kéo dài giọng đọc từng tiếng để cho câu văn, câu thơ ngân lên mặc dù là câu cảm, nhưng không phải là lời gợi mà là một lời than tha thiết. Việc kéo dài trường độ câu thơ gây sự chú ý cho đoạn kết của bài, nơi mà các ý bài thơ còn dồn lại.
 - Cường độ: Cường độ trong đọc diễn cảm phải nói đến dạy đọc to. Khi đọc trước nhiều người, học sinh phải tính đến người nghe. Các em phải hiểu rằng không chỉ đọc cho mình nghe mà phải đọc cho các bạn và cô giáo cùng nghe. như vậy phải đọc sao cho cả tập thể này nghe rõ. Nhưng như vậy không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên như cách đọc dùng để gây sự chú ý ở một số học sinh.Cường độ đọc có giá trị diễn cảm. Cường độ phối hợp với cao độ sẽ tạo ra giọng vang hay giọng lắng.
- Cao độ: Cao độ để đọc diễn cảm là muốn nói đến những chỗ lên giọng, xuống giọng dụng ý nghệ thuật, cần kết hợp giữa cao độ và cường độ giọng đọc để phân biệt lời tác giả và lời nhân vật. Khi đọc những lời dẫn chuyện cần đọc với giọng nhỏ hơn, thấp hơn những lời nói trực tiếp của nhân vật, ở đây có sự chuyển giọng mà những lời dẫn nên thấp để cho những lời hội thoại nổi lên. 
 Như vậy ngữ điệu giọng đọc, đọc diễn cảm là sự hoà đồng của tất cả những đặc điểm âm thanh này. Chỗ ngừng, tốc độ, chỗ nhấn giọng, chỗ lên giọng, hạ giọng tạo nên một âm hưởng chung của bài tập đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Vì vậy phải hoà nhập với câu chuyện bài văn, bài thơ có cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính tác phẩm quy định ngữ điệu cho chúng ta chứ không phải chúng ta tự đặt ra ngữ điệu.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
 Qua việc giảng dạy lớp 5 và dự giờ trao đổi học tập lẫn nhau như hội giảng cấp trường, cấp huyện, tôi thấy còn bộc lộ một số tồn tại sau:
a) Về phía học sinh:
- Có những học sinh học tới lớp 5 đọc vẫn chưa lưu loát, còn ngắc ngứ, ngắt nghỉ còn chưa đúng chỗ, nhấn giọng lên xuống tuỳ tiện. Trong quá trình đọc, một số em còn hấp tấp không chuẩn bị kĩ cho việc đọc nên đọc quá nhanh, dẫn đến sai từ, thêm hoặc bớt từ làm ảnh hưởng đến ỹ nghĩa của bài văn, bài thơ. Do đó các em không hiểu được nội dung, không hiểu được nghệ thuật, không hiểu được cái hay cái đẹp của tác phẩm .
 - Các em chưa có thói quen xem trước bài mới ở nhà nên việc đọc ở lớp không hiệu quả.
- Phần đọc thầm hiểu văn bản có nhiều học sinh chưa nắm hết được nội dung ý nghĩa câu chuyện, bài , câu, đoạn văn, câu thơ.
b) Về phía giáo viên:
- Chưa thường xuyên rèn đọc. Khi học sinh đọc sai đọc lại để sửa thì chưa rèn dứt điểm những phụ âm đầu hay sai. Nhiều giáo viên đọc chưa hay làm ảnh hưởng không ít tới việc đọc của học sinh. Hơn nữa trong giờ tập đọc có giáo viên chưa chú ý đến học sinh đọc sai, chỉ chú ý đến học sinh đọc đúng, đọc hay. 
- Trong giảng dạy việc rèn đọc diễn cảm mang tính chất hình thức, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh rèn đọc: đọc thành tiếng, đọc thầm. Ngược lại, trong giờ tập đọc có giáo viên chỉ chú trọng đến việc tìm hiểu nội dung bài, số lượng học sinh được đọc trong lớp ít. Do đó các em chưa biết khi nào đọc lên giọng, hạ giọng, khi nào nhấn giọng từ ngữ. Nhất là khi đọc lời các nhân vật chưa thể hiện được tính cách của các nhân vật.
- Thực tế ở giờ dạy tập đọc, giáo viên dành thời gian cho việc luyện đọc của học sinh còn ít, còn áp đặt cách đọc cho các em, học sinh phải đọc một cách thụ động. Nên bản thân học sinh tự cho rằng mình đã đọc thông thạo, do đó không chú tâm rèn kĩ năng đọc lưu loát, đọc diễn cảm. Giáo viên ít tổ chức, ít gợi ý để học sinh khám phá tìm hiểu cách đọc dẫn đến hiệu quả đạt được trong giờ tập đọc chưa cao.
- Chưa chú ý đến phương pháp dạy học mới. Đó là giáo viên chỉ là người gợi ý, dẫn dắt, còn học sinh sẽ là người chủ động tìm ra cách đọc đúng, đọc hay. Do đó việc rèn cho học sinh có thói quen nhận xét bạn đọc đúng hay sai để sửa cho bạn và điều chỉnh mình khi mình đọc sai là việc làm cần thiết. 
- Chưa chú ý đến việc cho học sinh luyện đọc theo nhóm nên trong giờ học còn nhiều em chưa được đọc.
c). Do các yếu tố khác:
- Do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương phát âm chưa chuẩn, nên học sinh còn đọc sai, phát âm nhầm lẫn ch/tr ; dấu hỏi với dấu ngã.
- Do bố mẹ ở địa phương khác chuyển đến hay trong gia đình có người lớn nói, phát âm chưa đúng nên các em bắt chước.
- Một số em do bố mẹ bận công việc nên chưa thực sự quan tâm đến việc sửa lỗi đọc cho con thường xuyên.
 Kiểm tra chất lượng đọc đầu năm học 2015 - 2016, tôi thấy kết quả như sau:
Tổng số học sinh : 32 em
Kĩ năng đọc
Số lượng
Tỉ lệ
Ghi chú
Đọc nhỏ, ấp úng, phát âm chưa chuẩn
5
15,6%
Đôi khi đọc sai từ
Đọc to nhưng còn sai từ (thêm - bớt từ)
10
31,3%
Đôi khi đọc quá nhanh
Đọc to, lưu loát, rõ ràng nhưng chưa diễn cảm
14
43,7%
Chưa phân biệt được giọng đọc
Đọc to, lưu loát, rõ ràng, diễn cảm tương đối tốt
3
9.4 %
Đôi khi chưa nhấn từ đúng
 Như vậy chất lượng đọc còn thấp, việc đề ra các biện pháp rèn học sinh đọc đúng,đọc hiểu, đọc diễn cảm là vô cùng cần thiết. 
3. Một số biện pháp giúp học sing đọc đúng, đọc diễn cảm. 
3.1: Chuẩn bị cho việc day đọc diễn cảm. 
a) đối với giáo viên : Phân loại học sinh theo nhóm đọc: 
 Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định tổ chức, qua tìm hiểu, điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh, sau đó tiến hành lựa chọn, phân loại học sinh theo kĩ năng đọc gồm 3 đối tượng sau:
+ Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm.
+ Đối tượng 2: Học sinh đọc to rõ, lưu loát chưa diễn cảm.
+ Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, ấp úng, phát âm chưa chuẩn (hoặc đọc to nhưng còn sai từ).
 Dựa vào đó tôi đã sắp xếp chỗ cho những học sinh đối tượng 1 ngồi cạnh những em đối tượng 3 để tạo thành những đôi bạn cùng tiến. Tiếp theo tôi giới thiệu với các em cấu tạo chương trình phân môn Tập đọc để các em nắm được các chủ điểm chính trong từng học kì và cả năm học, đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm. 
- Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng các kí hiệu để dựa vào đó luyện đọc
 cho đúng và diễn cảm.
 Cụ thể: 
/
Ngắt lấy hơi
Nhấn giọng
Nhấn giọng, kéo dài hơi
Cao giọng
Vắt dòng thơ trên với dòng thơ dưới
Kéo dài và hạ giọng ở cuối câu
- Hướng dẫn các em lyện đọc cặp, trong nhóm, phân vai: Tạo thói quen cho các nhóm tự hướng dẫn điều chỉnh các bạn trong nhóm đọc tốt hơn.
- Hướng dẫn các cách đọc thầm, đọc lướt, tham gia các trò chơi học tập.
- Tôi đã nghiên cứu cá hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp nội dung bài đọc và lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp để phát huy tính sáng tạo, chủ động cho học sinh.
b) Đối với học sinh:
- Tư thế đọc
+ Khi ngồi đọc: cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng từ 30-35cm, cổ và đầu thẳng.
+ Khi đứng đọc: Tư thế thoải mái, hai tay cầm sách cách mắt khoảng30cm. 
+ Khi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp thì sẽ không bị ngắc ngứ , thừa hoặc thiếu chữ. 
 - Có ý thức tự đọc.
 + Yêu cầu học sinh đọc kĩ trước bài ở nhà , có đọc trước bài ở nhà học sinh mới biết được từ nào khó đọc , hay sai để đến lớp nghe cô hướng dẫn sửa 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh_lop_5.doc