Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả tập làm văn miêu tả

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả tập làm văn miêu tả

Giúp học sinh tốt phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng là vấn đề được nhiều giáo viên tiểu học quan tâm. Chương trình thay sách tiểu học phát huy bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong môn Tiếng Việt. Học sinh tiểu học ngay từ lớp 1, 2, 3 đã được tiếp xúc với nhiều dạng văn bản khác nhau, có nội dung gần gũi trong cuộc sống và kĩ năng giao tiếp của các em với cộng đồng. Đó là một ưu điểm không ai phủ nhận. Tuy nhiên, chương trình mới chuyển tải sự thay đổi cả về nội dung và kỹ năng rèn luyện lẫn hình thức, biện pháp và quy trình lên lớp. Là giáo viên, nhất là giáo viên dạy lớp 4, 5 không ai tránh khỏi những trăn trở, băn khoăn là làm thế nào giúp học sinh rèn luyện tốt kĩ năng làm bài Tập làm văn, nhất là văn miêu tả.

docx 24 trang Trần Đại 28/04/2023 6788
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả tập làm văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD & ĐT THỊ XÃ TÂN CHÂU
TRƯỜNG TIỂU HỌC “B” LONG AN
dvc
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
Năm c: 2011 - 2012
Đề tài:
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TẬP
CÓ HIỆU QUẢ TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
Thuộc lĩnh vực: Chuyên môn 
 Người viết : HUỲNH THANH HỚN
 Chức vụ : GIÁO VIÊN
 Đơn vị công tác : Trường tiểu học B Long An
 Số điện thoại : 01677 425 924
Năm học: 2018 - 2019
MỤC LỤC
 Nội dung Trang
I. Sơ lược lí lịch tác giả 	2
II.Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị............................................2
.Tên sáng kiến	2
 . Lĩnh vực:...................................................................................2
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến 	2 
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến 	4
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến 	6 
3. Nội dung sáng kiến 	6	 
IV. Hiệu quả đạt được 	19	 
V. Mức độ ảnh hưởng 	21 
VI. Kết luận: 	22
PHÒNG GD & ĐT TÂN CHÂU
TRƯỜNG TIỂU HỌC B LONG AN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠN PHÚC
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TẬP CÓ HIỆU QUẢ
 TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
 I. Sơ yếu lý lịch tác giả:
 - Họ và tên : Huỳnh Thanh Hớn:Nam
 - Ngày tháng năm sinh : 25/05/1964
 - Nơi thường trú Ấp tân hậu B2 xã Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang
 - Đơn vị công tác: Trường tiểu học B Long An.
 - Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp.
 - Trình độ chuyên môn : Cử nhân tiểu học
 - Lĩnh vực công tác : Giáo viên dạy lớp.
II.Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
 a. Thuận lợi:
 Bản thân tham gia dạy lớp trên 33 năm và được nhà trường phân công dạy lớp 5 nhiều nhất.Với lòng yêu nghề mến trẻ, sự say mê dạy phân môn Tập làm văn, thông qua từng bài giảng và đối tượng học sinh theo từng thời gian khác nhau, nên tôi chắt lọc những kinh nghiệm phục vụ bài giảng, nên chất lượng bài dạy năm sau cao hơn năm trước. Cảnh vật xung quanh trường cũng rất gần gũi và quen thuộc với các em, là đối tượng quan sát giúp các em cảm nhận được.
Thư viện trường đạt chuẩn, nên việc sưu tầm tài liệu, sách tham khảo, sách giáo khoa, chuyên san giáo dục cũng rất đầy đủ.Ngoài ra tôi còn tham gia học tập chuyên đề nâng cao phương pháp dạy Tập làm văn lớp 5 nhất là văn miêu tả, học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp để làm giàu vốn kiến thức của mình.
b.Khó khăn:
 Đối tượng học sinh đa số là con em của gia đình lao động nghèo, ít có điều kiện tham quan du lịch ngắm nhìn vẽ đẹp thiên nhiên. Học sinh thiếu vốn sống. Thói quen đọc sách của các em cũng rất hạn chế.
 -Tên sáng kiến: BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TẬP CÓ HIỆU QUẢ TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ.
 -Lĩnh vực: Chuyên môn
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến :
Giúp học sinh tốt phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng là vấn đề được nhiều giáo viên tiểu học quan tâm. Chương trình thay sách tiểu học phát huy bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong môn Tiếng Việt. Học sinh tiểu học ngay từ lớp 1, 2, 3 đã được tiếp xúc với nhiều dạng văn bản khác nhau, có nội dung gần gũi trong cuộc sống và kĩ năng giao tiếp của các em với cộng đồng. Đó là một ưu điểm không ai phủ nhận. Tuy nhiên, chương trình mới chuyển tải sự thay đổi cả về nội dung và kỹ năng rèn luyện lẫn hình thức, biện pháp và quy trình lên lớp. Là giáo viên, nhất là giáo viên dạy lớp 4, 5 không ai tránh khỏi những trăn trở, băn khoăn là làm thế nào giúp học sinh rèn luyện tốt kĩ năng làm bài Tập làm văn, nhất là văn miêu tả.
Trong quá trình giảng dạy lớp 5 những năm qua, mặc dù đã bám sát chương trình, và phương pháp dạy tập làm văn hiện hành. Tuy nhiên học sinh hoàn thành văn miêu tả còn rất hạn chế. Khi chấm bài tôi thấy đa số học sinh biến bài văn miêu tả thành bài văn kể. Vốn từ các em còn nghèo nàn, câu không rõ ý tối nghĩa.
Với những lý do trên, tôi chọn và viết đề tài : “Biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm văn miêu tả”.
Giới hạn nghiên cứu:
 Phân môn tập làm văn mang tính tổng hợp các kiến thức của môn kể chuyện, Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và Câu. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng được kết hợp hài hòa với nhau. Muốn dạy tốt phân môn tập làm văn có hiệu quả, giáo viên cũng phải dạy tốt các môn tập đọc,chính tả,luyện từ và câu ..Vì vậy trong các môn nói trên thường xuất hiện các đoạn văn khổ thơ có nội dung miêu tả về cảnh vật thiên nhiên và con người. Học tốt môn tập làm văn học sinh phải cảm thụ được các kĩ năng nghe, nói ,đọc, viết. Ngoài ra giáo viên cần phải đảm bảo các mục tiêu cần đạt về chuẩn kiến thức kĩ năng (Ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ giáo dục và đào tạo và phù hợp với trình độ của từng học sinh.
- Nghiên cứu và áp dụng cho học sinh lớp 5C Trường Tiểu học B Long An từ năm học 2015 – 2016 và rút kinh nghiệm áp dụng cho các năm sau.
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài Tập làm văn.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả cảnh, tả người) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ- câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người,...
Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
  Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra.
  Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 4, lớp 5.
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến:
Năm nay (2018 – 2019), tôi được phân công phụ trách lớp 5C với 30 học sinh. Hầu hết 30 học sinh của lớp 5C tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài Tập làm văn. Sau khi nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tôi nhận thấy học sinh lớp 4 đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật. Nhưng qua khảo sát chất lượng đầu năm học này với kết quả như sau.
Tổng số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
30
SL
TL
SL
TL
SL
TL
13
43,3%
12
40%
5
16,6%
™ Các hạn chế của học sinh là:
 Vốn từ còn nghèo nàn, viết văn dài dòng, còn vụng về, chưa thể hiện được nghệ thuật miêu tả,so sánh nhân hóa.....
* Nguyên nhân của thực trạng
 Theo tôi có những nguyên nhân như sau:
 * Về phía học sinh:
 Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó.
* Về phía giáo viên:
Chưa có cách phát huy tố hết năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến:
Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra bảy giải pháp sau đây, hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tôi. 
3. Nội dung sáng kiến
* Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy Tập làm văn:
Để giúp học sinh hoàn thành tốt môn tập làm văn, viết được những bài văn miêu tả sinh động. Yêu cầu người giáo viên phải biết học sinh cần gì? Để xá lập mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Người giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh.
c. Tiến trình thực hiện.
Các biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả lớp 5 được thực hiện từ năm học 2017-2018 thấy sự tiến bộ từ học sinh rất nhiều.Hiệu quả cuối năm đạt chất lượng cao.Vậy nên tôi tiếp tục áp dụng vào lớp 5C khối 5 trường tiểu học B Long An năm học 2018-2019.
Nếu áp dụng đề tài trên tốt sẽ xây dựng được lớp học thân thiện gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực của học sinh. Trong môi trường phát triển toàn diện, học sinh học tập hứng thú, chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự dìu dắt của người thầy, gắn chặt giưa học với hành, rèn luyện kĩ năng và phương pháp học tập.
d. Thời gian thực hiện. 
Bản thân nghiên cứu sáng kiến này từ lâu và được xây dựng nên đè tài sáng kiến "Biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả tập làm văn miêu tả".Áp dụng vào năm học 2018-2019. Qua kiểm tra định kì năm học này học sinh thu dược kết quả rất khả quan.
4. Biện pháp tổ chức.
4.1 Các biện pháp lần lượt thể hiện như sau:
 a.Biện pháp dạy học từng kiểu bài: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu và làm bài tập thực hành theo các biện pháp sau:
  Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.
  Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.
b. Trình tự dạy Tập làm văn:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội dung cho học sinh Hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành.
Ví dụ: 
Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế nào là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng và cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua quan sát đối tượng miêu tả (Nội dung này nằm trong bước chuẩn bị bài mới của giáo viên).
4.2 Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (Tiếng Việt 4 tập 1, trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý :
d. Tả theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại).
Ví dụ: Tả cảnh buổi sáng trên quê hương em của(Tác giả Nguyễn Quang Sáng( SGK TV5/11).
Ví dụ1 : Đứng trên đồi Khau Cả, Em có thể nhìn thấy toàn cảnh thị xã. Ông mặt trời hồng rực vừa thức dậy ló qua khỏi ngọn cây . Ánh nắng ban mai tỏa xuống mặt đất xua đi cái lạnh của đêm. Cảnh vật như bừng tỉnh tràn đầy sức sống.Những dãy núi đồi trùng trùng điệp điệp dần dần hiện ra giữa màn sương mờ ảo, từng dãy mây trắng sà xuống quẩn quanh sườn núi hòa với sắc hoa ban trắng xóa giữa núi rừng.
e. Tả theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
Ví dụ 2:Bài” Hoàng hôn trên sông Hương” (Của Tác Giả Hoàng Phú Ngọc Tường) (SGK TV 111). Mùa thu, gió thổi mây về phía cử sông , mặt nước phía dưới cầu Tràng Tiền đen sẫm lại, trong khi phía trên này lên mãi gần Kim Long,mặt sông sáng màu ngọc lam in những vệt mây hồng rực rỡ của trời chiều .Hình như con sông Hương rất nhạy cảm với ánh sáng nên đến lúc tối hẵn, đứng trên cầu chăm chú nhìn xuống người ta còn thấy những săc mơ hồng ửng lên như một thứ ảo giác trên mặt nước tối thẳm. Phố ít người con đường ven sông như dài thêm ra dưới vòm lá xanh của hai hàng cây... 
g. Tả theo trình tự tâm lí:
Những cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng.
Ví dụ 1: 
“ Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai, xoã xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay, bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày. 
Giọng bà trầm bỗng, ngân nga như tiếng chuông. Nó khắc sâu vào trí nhớ tôi dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi bà mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả,...” (Bà Tôi - Tiếng Việt 5- Tập 1).
Tác giả đã quan sát và tập trung tả mái tóc, giọng nói rồi đến ánh mắt. Mái tóc “dày kì lạ”.
Ví dụ 2: 
Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả đã quan sát bằng các giác quan như sau:
  Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
  Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
  Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận mưa đầu mùa.
  Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót của chào mào.
4.3 Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). 
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên.).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
4.4 Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả:
 Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm xúc của mình.
P Kiểu bài tả cảnh: Cần xác định các yêu cầu sau:
 a. Xác định không gian, thời gian nhất định:
Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn trình tự quan sát. Việc quan sát có thể tiến hành ở những vị trí khác nhau nhưng vẫn phải có một vị trí chủ yếu làm cho cảnh được quan sát bộc lộ ra những điều cơ bản nhất của nó. Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn bao quát toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để quan sát.
b. Xác định trình tự miêu tả:
Khi tả phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả. Tả từ trên xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... là tuỳ thuộc đặc điểm của cảnh.
c. Chọn nét tiêu biểu:
Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc điểm đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp phần làm cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn.
d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan:
Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo trong nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh như thế nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Nhà thơ Lê Anh Xuân, trong niềm vui của ngày Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, đất nước thoát khỏi ách ngoại xâm, bằng tâm trạng hạnh phúc nhất, ông đã thốt lên:
“Bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đôi mươi.”
Đây chính là phần hồn của cảnh. Cảnh không có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức sống.
e. Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:
Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh hoặc nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
Ví dụ : 
Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức (Sách Tiếng Việt 5 - tập 1 - trang 22): “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.”
Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”. 
Tác giả cũng đã dùng mắt để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã dùng tai để nghe tiếng dế và dùng mũi để cảm nhận hương vườn và cũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi viết: 
“Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi vật.”
“Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”
“ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”
P Kiểu bài tả người:
Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở những đặc điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng dẫn học sinh “miêu tả người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả.
Ví dụ: 
Trong bài văn “Người thợ rèn” (SGK lớp 5- tập 1- trang 123). Tác giả miêu tả người thợ rèn đang làm việc:
“Anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch.”
Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình ảnh người thợ rèn như một người chinh phục dũng mãnh và thấy rõ quá trình biến thỏi thép thành một lưỡi rựa.
Vì thế, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học sinh xác định các yêu cầu sau:
a. Chú ý tả ngoại hình hoạt động:
Khi tả người cần chú ý đến tuổi tác- mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát triển về cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện theo giới tính, thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống. Khi miêu tả cần tập trung vào việc làm sao nêu được cái chung và cái riêng của con người được miêu tả.
b. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động:
Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt, từng bộ phận để tả nhưng để nội dung bài văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình, tính nết đan xen với tả hoạt động.
Ví dụ: Tả về người mẹ.
Năm nay, mẹ em gần bốn mươi mốt tuổi. Với thân hình mảnh mai, thon thả đã tô đậm cho mẹ với vẻ đẹp của người mẹ hiền từ, mái tóc đen óng mượt mà dài ngang lưng được mẹ thắt lên gọn gàng khi ra đường. Đôi mắt mẹ đen láy luôn nhìn em với ánh mắt trìu mến gần gũi. Khuôn mặt mẹ hình trái xoan với làn da trắng. Đôi môi mỏng đỏ hồng nằm dưới chiếc mũi cao thanh tú làm cho càng nhìn càng thấy đẹp. Khi cười nhìn mẹ tươi như hoa, đóa hoa hồng vừa nở sớm mai. Đôi bàn tay mẹ tròn trịa, trắng trẻo đã nuôi nấng, dìu dắt em từ thưở em vừa lọt lòng. Giọng nói của mẹ đầy truyền cảm, lúc mượt mà như tiếng ru, lúc ngân nga như tiếng chim họa mi buổi sớm. Mẹ em may và thêu rất đẹp, đặc biệt là may áo dài, thường ngày mẹ hay mặc bộ đồ bộ gọn gàn

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_hoc_tap.docx