SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện
Bác Hồ hính yêu đã nói “Không có giáo dục thì không nói gì đến nền kinh tế nước nhà” sản phẩm của giáo dục chính là con người, là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước, trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ.
“Trẻ em hôm nay
Thế giới ngày mai"
Trẻ em không chỉ là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi gia đình mà còn là tương lai của đất nước, của xã hội. Việc bảo vệ và chăm sóc là trách nhiệm của nhà nước của xã hội và của mỗi gia đình. Trẻ em là người trực tiếp được giáo dục, là những chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó, sự nghiệp giáo dục đã và đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm, coi trọng hàng đầu đặc biệt là giáo dục mầm non.
Giáo dục mầm non là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đó là một bậc học đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Nhiệm vụ của giáo viên mầm non là chăm sóc giáo dục để nhằm phát triển tất cả những khả năng của trẻ, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, tạo điều kiện cho trẻ có khả năng tiếp thu những kiến thức trong học tập cũng như trong cuộc sống sau này.
Đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non là: Trẻ nhớ nhanh nhưng lại nhanh quên. Khả năng ghi nhớ không chủ định là chủ yếu, khả năng ghi nhớ có chủ định đang hình thành và phát triển. Chính vì vậy phương pháp dạy trẻ ngay từ buổi đầu tiên là rất quan trọng, mỗi giáo viên chúng ta cần lựa chọn cho mình một phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng trẻ, phù hợp với điều kiện thực tế của trường của lớp mình. Từ đó giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Để giúp trẻ phát triển được ngôn ngữ một cách tốt nhất thì trước hết người giáo viên cần nắm vững được vai trò của việc phát triển ngôn ngữ.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KỂ CHUYỆN Người thực hiện: Trịnh Thị Liên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non Xuân Vinh SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Chuyên môn THANH HÓA NĂM 2018 MỤC LỤC Nội dung Trang Mục lục 2 1. Mở đầu 3 1.1. Lý do chọn đề tài 3 1.2. Mục đích nghiên cứu 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu 4 1.4. Phương pháp nghiên cứu 4 2. Nội dung 5 2.1. Cơ sở lý luận 5 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 5 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 7 * Biện pháp 1: Tạo môi trường phong phú, hấp dẫn để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 7 * Biện pháp 2: Sử dụng đồ dùng trực quan sinh động trong hoạt động kể chuyện cho trẻ. 8 * Biện pháp 3: Rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ. 9 * Biện pháp 4: Lồng ghép hoạt động kể chuyện vào các hoạt động khác để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 9 * Biện pháp 5: Tổ chức hoạt động ở mọi lúc mọi nơi. 11 * Biện pháp 6: Thực hiện tốt công tác tuyên truyền phối hợp với phụ huynh 11 * Biện pháp 7: Đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm. 12 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 16 3. Kết luận - Kiến nghị 18 3.1. Kết luận 18 3.2. Kiến nghị 19 Tài liệu tham khảo 20 1. Mở đầu. 1. 1. Lí do chọn đề tài: Bác Hồ hính yêu đã nói “Không có giáo dục thì không nói gì đến nền kinh tế nước nhà” sản phẩm của giáo dục chính là con người, là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước, trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. “Trẻ em hôm nay Thế giới ngày mai" Trẻ em không chỉ là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi gia đình mà còn là tương lai của đất nước, của xã hội. Việc bảo vệ và chăm sóc là trách nhiệm của nhà nước của xã hội và của mỗi gia đình. Trẻ em là người trực tiếp được giáo dục, là những chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó, sự nghiệp giáo dục đã và đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm, coi trọng hàng đầu đặc biệt là giáo dục mầm non. Giáo dục mầm non là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đó là một bậc học đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Nhiệm vụ của giáo viên mầm non là chăm sóc giáo dục để nhằm phát triển tất cả những khả năng của trẻ, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, tạo điều kiện cho trẻ có khả năng tiếp thu những kiến thức trong học tập cũng như trong cuộc sống sau này. Đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non là: Trẻ nhớ nhanh nhưng lại nhanh quên. Khả năng ghi nhớ không chủ định là chủ yếu, khả năng ghi nhớ có chủ định đang hình thành và phát triển. Chính vì vậy phương pháp dạy trẻ ngay từ buổi đầu tiên là rất quan trọng, mỗi giáo viên chúng ta cần lựa chọn cho mình một phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng trẻ, phù hợp với điều kiện thực tế của trường của lớp mình. Từ đó giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Để giúp trẻ phát triển được ngôn ngữ một cách tốt nhất thì trước hết người giáo viên cần nắm vững được vai trò của việc phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ có vai trò rất to lớn trong cuộc sống con người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những điều kiện cần thiết như Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ tình cảm lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn và tôn trọng nó”. Trong công tác giáo dục mầm non, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với giáo dục trẻ, ngôn ngữ đã góp phần tạo cho trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong đời sống con người, ngôn ngữ giúp ta nhận thức được thế giới xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ phong phú mà trẻ được nói theo ý tưởng của mình. Ngôn ngữ chính là cơ sở của sự suy nghĩ và là công cụ tư duy. Để đáp ứng nhận thức đó của trẻ không có cách nào khác là thông qua lời kể của người lớn và thông qua các tác phẩm văn học có kết hợp hình ảnh trực quan. Từ đó giúp trẻ có thể dùng lời nói để diễn đạt những cảm xúc của mình. Trẻ còn sử dụng ngôn ngữ sâu sắc hơn, tạo cho trẻ được sống trong môi trường giao tiếp, trên cơ sở đó nảy sinh ra nhiều suy nghĩ, sáng tạo mới. Vì vậy là giáo viên mầm non được nhà trường phân công dạy lớp 5 - 6 tuổi, tôi không khỏi băn khoăn làm thế nào để dạy cho trẻ phát triển ngôn ngữ có hiệu quả cao nhất tôi đã học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp đi trước, tham khảo ý kiến đóng góp của lãnh đạo trường, cộng với việc tìm tòi, sưu tầm, sáng tác những câu truyện, bài thơ, câu đố, những bài ca dao, đồng dao... Để trẻ phát triển ngôn ngữ, mạnh dạn trong giao tiếp, giúp trẻ đón nhận một cách thoải mái và hào hứng hơn. Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện”. Để nghiên cứu và nhằm góp phần bé nhỏ của mình trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nói chung và lớp tôi nói riêng. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Giúp giáo viên tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao chất lượng dạy trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện, đạt kết quả cao. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện”. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu cơ sở lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm. - Phương pháp ghi chép, quan sát: Quan sát khả năng hoạt động của trẻ. - Phương pháp điều tra thực tiễn, thực hành trực tiếp: Nghiên cứu tình hình tại lớp để đưa ra các biện pháp phù hợp. - Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại trò chuyện và phân tích, hướng trẻ đi sâu vào nội dung câu chuyện. - Phương pháp thực hành: Đóng vai các nhân vật trong truyện thể hiện lời nói, cử chỉ, điệu bộ của từng nhân vật. - Phương pháp toán học: Sử dụng phương pháp toán học để đánh giá kết quả trên trẻ. - Phương pháp khích lệ, nêu gương: Khuyến khích động viên, khích lệ trẻ để tăng thêm hứng thú cho trẻ hoạt động. 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Ngôn ngữ đối với con người nói chung, với sự phát triển của trẻ mầm non nói riêng (đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi) có một vị thế hết sức quan trọng. Nó là một trong những cơ sở, tiền đề để cho trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần. Ngôn ngữ giúp cho sự phát triển tư duy của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp cho chúng ta và nhất là trẻ em giao tiếp với mọi người và giúp trẻ dễ dàng hoà đồng vào cuộc sống một cách thân thiện nhất, nói sao cho mọi người hiểu, hiểu khi người khác nói đó là điều cần thiết khi giao tiếp. Đồng thời, thông qua giao tiếp giúp trẻ phát triển trí tuệ để nhận biết thế giới xung quanh và phát triển tình cảm của trẻ. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như: Hoạt động khám phá khoa học, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình, làm quen với chữ cái... mà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen văn học, bộ môn văn học trẻ sẽ được đọc thơ, Kể chuyện, đóng kịch tạo cho trẻ được hoạt động nhiều, giúp trẻ khả năng phát triển trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ, khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái tốt, cái xấu của mọi vật xung quanh trẻ. Bởi vì ở lứa tuổi trẻ được ví như tờ giấy trắng, trẻ đến lớp như mở đầu trang sách cô giáo in lên những hình ảnh, những vốn từ, những nhân vật, cử chỉ khác nhau, thông qua những bài thơ, câu chuyện giúp trẻ mở mang kiến thức về xã hội thiên nhiên, thông qua môn văn học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ là một nhiệm vụ quan trọng trong chương trình giáo dục toàn diện cho trẻ. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. a. Thuận lợi: Trường mầm non Xuân Vinh nằm giữa trung tâm của xã, trường có tổng số học sinh 345 cháu gồm 12 nhóm lớp với 29 cán bộ và giáo viên, nhân viên trình độ giáo viên đạt chuẩn 100% trên chuẩn 75% chất lượng giảng dạy ngày càng được nâng lên, được phụ huynh học sinh tin tưởng số lượng học sinh ra lớp đông. Năm học 2017 - 2018 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5 - 6 tuổi với số cháu 35, trong đó 14 cháu nữ, 21 cháu nam, 100% trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, và tình cảm xã hội, cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ. Đó là một thuận lợi lớn để tôi rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho học sinh thông qua hoạt động kể chuyện, Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, Chỉ đạo sát sao chuyên đề giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, tạo mọi điều kiện giúp tôi những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi của các cháu. b. Khó khăn Qua thực tế ở địa phương cho thấy phụ huynh còn nói tiếng địa phương nhiều, Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều. Phát âm còn chưa chuẩn về các âm như: s - x., tr - ch.... Nhiều trẻ chưa phân biệt được sự khác nhau trong cách phát âm mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung. Ví dụ: Chưa - chư, mía - mí,15% khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đồng đều, không ổn định, vì vậy nên trẻ chưa chú ý đến các thành phần trong câu, trong từ, bớt âm khi nói. 30% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng. 10% trẻ nói, phát âm do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ nói tiếng địa phương. Đa số phụ huynh là nông nghiệp, bận công việc nên chưa quan tâm đến trẻ, không trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần. (Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào và chỉ tay vào đồ vật, đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép), đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ. Với những khó khăn trên thân tôi thấy rằng cần có những biện tốt nhất nhất nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ và tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học thông qua hoạt động truyện kể. c. Kết quả thực trạng. * Đặc điểm phát âm: Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ hơn, ít ê a, ậm ừ, bên cạnh đó trẻ vẫn còn phát âm sai những âm thanh khó, những từ có 2 - 3 âm tiết như: lựu - lịu, hươu - hiu, mướp - mớp, rắn - dắn.... * Đặc điểm về vốn từ: Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng từ 800 - 1300 từ. Danh từ và động từ trẻ vẫn chiếm ưu thế. tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn. Trẻ chưa sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao thấp, dài ngắn, rộng hẹp, các từ chỉ tốc độ như: nhanh - chậm, các từ chỉ màu sắc: đỏ, vàng, trắng, đen, ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như: hôm qua, hôm nay, ngày mai, trẻ dùng chưa chính xác. Một số trẻ biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam. 40% trẻ biết sử dụng các từ cao thấp, dài, ngắn, rộng,hẹp, 35% số trẻ đếm được 1 - 10, tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. Ví dụ: Mẹ có mót ngồi không/ thay cho từ muốn ngồi không. * Đặc điểm ngữ pháp: Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ dùng từ trong câu vẫn chưa thật chính xác: Ví dụ: Mẹ ơi, con muốn cái dép tê. Trẻ chưa có khả năng kể lại chuyện theo trình tự lô gic. Qua khảo sát thực trạng trên tôi đã có kết quả như sau: TT Nội dung khảo sát Số cháu Khảo sát Kết quả T-K % TB % 1 Phát âm rõ ràng mạch lạc 35 20 57 15 43 2 Trẻ tự tin trong giao tiếp 35 18 51 17 49 3 Hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo 35 8 22 27 78 4 Biết thể hiện ngôn ngữ hoàn cảnh (Đóng kịch) 35 7 20 28 80 Để khắc phục giải quyết thực trạng và một số hạn chế trên tôi đã mạnh dạn áp dụng “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện” cho trẻ như sau: 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. * Biện pháp 1: Tạo môi trường phong phú, hấp dẫn để phát triển ngôn ngữ cho trẻ Môi trường cho trẻ hoạt động là vô cùng quan trọng, bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ hoạt động. Nó tạo cho trẻ hứng thú, mạnh dạn, tích cực tham gia các hoạt động vì thế. * Với môi trường trong lớp: Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ, đội hình để tạo môi trường học tốt và thoải mái cho trẻ. Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học thể loại chuyện kể mà trọng tâm là dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn tận dụng không gian lớp học, mảng tường làm góc cổ tích của bé (hay bé yêu kể chuyện) để thu hút trẻ, giá đồ chơi trưng bày các dụng cụ kể chuyện, sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ lấy, dễ sử dụng, kích thích trẻ hoạt động tích cực hơn. Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử dụng tranh, sử dụng rối tay, sa bàn mô hình truyện, cho linh hoạt, thuần thục, sau đó mới dạy trẻ... để giúp trẻ cảm thụ được tác phẩm văn học đó là một cách tốt nhất. * Với môi trường ngoài lớp: Tôi đã không ngừng tận dụng không gian bên ngoài để cho trẻ được thực hành trãi nghiệm: Thăm quan vườn cổ tích, trong vườn cổ tích có các nhân vật, con vật như: Nàng bạch tuyết và 7 chú lùn, Tấm cám, và các con vật ngộ nghĩnh khác. Tôi gợi cho trẻ gọi tên nhân vật, con vật, trong câu chuyện trẻ được nghe. Gợi cho trẻ kể lại chuyện, đóng vai “nàng bạch tuyết và 7 chú lùn”, đóng vai “Tấm cám” cách cô tấm cho cá ăn.Tôi còn gợi ý cho trẻ xem tranh ảnh vẽ trên tường trong vườn cổ tích, chân cầu thang, trên tường xung quanh trường .... cho trẻ gọi tên các nhân vật, con vật có trong các câu chuyện, gợi hỏi trẻ con nhớ nhân vật đó trong chuyện nào, nhân vật đó làm gì? động tác thế nào? Con làm lại cho các bạn xem ........ Ngoài ra cho trẻ được vào góc thư viện của trường để được đọc chuyện theo tranh, với đa dạng các loại chuyện tranh cho trẻ được thỏa thích khám phá. Hơn thế nữa tôi còn cho trẻ được thăm quan vườn hoa, vườn rau của bé.Chơi các đồ chơi ngoài sân vận động. Qua đó giúp trẻ được phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất. Khi cho trẻ ra hoạt động ngoài trời dưới bóng mát của tán cây ngoài sân trường, tôi thường tạo ra một sân khấu nhỏ di động đơn giản như bộ bàn ghế, khăn, hoa lá cây, mũ, hay rối rật, rối tay.... Tôi khuyến khích trẻ đóng kịch dưới bóng mát của cây, cô làm người dẫn chuyện, đôi khi đóng vai cùng trẻ từ đó giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong hoạt động. * Biện pháp 2: Sử dụng đồ dùng trực quan sinh động trong hoạt động kể chuyện cho trẻ. Tôi tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: sách báo, lịch cũ, ống giấy, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ làm thành những con rối, những mô hình nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Dựa và từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách cụ thể, mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi tôi cho các cháu vào hoạt đông chơi góc để trẻ tạo ra những đồ chơi làm bằng lá cây, giấy vụn, hột hạt vẽ và tô màu những bức tranh, những hình ảnh trẻ sưu tầm gợi mở cho trẻ tưởng tượng để kể chuyện. Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con rối thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật trẻ thích. Khi kể chuyện tùy vào nội dung câu chuyện ở mỗi chủ đề tôi sẽ lựa chọn đồ dùng phù hợp. Trước khi kể cho trẻ nghe tô tập sử dụng đồ dùng sao cho thật khéo léo, uyển chuyển theo nội dung câu chuyện, có thể sử dụng rối, mô hình, mũ múa, tranh ảnh có màu sắc đẹp để gây hứng thú cho trẻ từ đó trẻ thích nghe cô kể, thích xem tranh và biết cách sử dụng đồ dùng và giữ gìn tranh ảnh. Đặc biệt cuối tiết học khi trẻ lên kể lại chuyện, hoạt động kể chuyện sáng tạo, hay hoạt động đóng kịch tôi hướng dẫn và khuyến khích trẻ sử dụng đồ dùng trực quan thật khéo léo, sinh động theo nội dung câu chuyện, cho nhiều trẻ được tham gia, và thay đổi đồ dùng trực quan giúp trẻ không nhàm chán. Tôi sử dụng các nguyên liệu mở như: bìa cứng, gỗ, hộp xốp, đất ... để làm thành những con vật xinh xắn, ngộ nghĩnh, đa dạng màu sắc đẹp mắt gây hứng thú cho trẻ và giúp trẻ có thể sử dụng để kể truyện theo ý thích của mình. Ví dụ: Kể chuyện “Ba chú lợn con’’để gây hứng thú cho trẻ tôi chuẩn bị một sân khấu rối, các con rối được làm bằng vải vụn được cải biên màu sắc rực rỡ hoặc có thể dùng vải may quần áo để trẻ hóa thân vào các nhân vật trong truyện. * Biện pháp 3: Rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ. Trẻ biết chia nhóm kể chuyện, biết phân vai, biết nhập vai của mình nhận. Rèn cho trẻ thói quen khi đứng trước đám đông, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, mạnh dạn, linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn đóng kịch. Thông qua hoạt động này trẻ được thể hiện mình, được thực hành, trãi nghiệm, được giao lưu, tiếp xúc với những hoạt cảnh mà mình thích, và sáng tạo theo nội dung câu chuyện. Cũng từ đó trẻ có được kỹ năng giao tiếp với bạn bè, với cô giáo và những người xung quanh trẻ, kích thích được tính năng động, sáng tạo của trẻ. Tạo điều kiện cho trẻ thoả thuận và tự chọn vai kể của mình theo ý thích về sự sáng tạo của trẻ, có thể dùng lời khuyến khích động viên trẻ thực hiện vai diễn của mình. - Để kích thích được sự sáng tạo của trẻ tôi thường tập cho trẻ kể chuyện bằng sa bàn. Chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hớp di chuyển các nhân vật trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo các nhân vật trong chuyện mình sử dụng. Hơn thế nữa tôi còn dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện, cho trẻ chọn những bức tranh trẻ thích nghép lại và kể chuyện theo ý tưởng của mình. Sau những lần như thế tôi lại khen ngợi động viên, khuyến khích để trẻ có động lực cho những lần sau. * Biện pháp 4: Lồng ghép hoạt động kể chuyện vào các hoạt động khác để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Theo phương pháp dạy học tích hợp với môn làm quen văn học có thể lồng ghép, kết hợp với tất cả các môn khác và giúp cho các bộ môn khác trở nên sinh động hơn, đồng thời cũng làm tăng thêm vốn từ và kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ. * Môn âm nhạc hoạt động bổ trợ đề tài: câu truyện: “Món quà của cô giáo” Cho trẻ vận động theo bài hát “Cô giáo” sau đó đàm thoại và dẫn dắt vào bài. * Môn toán: Tên bài dạy: “Truyện gấu con chia quà” trẻ biết cách xếp tương ứng 1:1, biết đếm và chia đủ cho các thành viên trong gia đình. * Hoạt động ngoài trời: Dạy trẻ kể về những sự vật hiện tượng xung quanh cuộc sống hàng ngày, những điều trẻ đã biết, tưởng tượng ... trẻ phải tự lựa chọn nội dung, hình thức, ngôn ngữ, sắp xếp chúng theo một trình tự nhất định. Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo dạng: Kể chuyện miêu tả, kể chuyện theo chủ đề. Kể chuyện miêu tả hiện tượng thời tiết: trời âm u, mây đen, gió thổi mạnh trời sắp mưa. Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự kiện xảy ra trong thời gian nhất định của nhân vật nào đó. Ví dụ: Truyện (dê con nhanh trí) con cáo giả vờ làm dê mẹ lúc dê đi vắng và nhúng chân vào chậu bột cho chân trắng giống dê mẹ. Nhưng cáo vẫn bị dê con phát hiện và đuổi cáo đi. * Hoạt động góc: Dạy trẻ kể theo tri giác: Không ngừng phát triển ngôn ngữ độc thoại nên cho trẻ nói đúng ngữ pháp tư thế tác phong khi trẻ nói và phát triển các cơ quan cảm giác. Bởi vì trẻ quan sát tốt mới miêu tả tốt. Mục đích nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ phát triển tư duy lô gíc, khả năng quan sát, trẻ tập trung vào đồ chơi. Chuẩn bị: Chọn đồ dùng, đồ chơi phải đẹp hấp dẫn về hình thức để làm cho trẻ hứng thú, rung động khi kể. Chọn đồ chơi, vật thật có thể như: Gương, lược, khăn, chén ly, cốc, gia súc, gia cầm, thực vật ... chọn tranh nên chọn tranh có màu sắc tươi sáng bố cục rõ ràng, tổ chức cho trẻ làm quen với tranh hoặc vật thật xác định màu sắc đặc điểm, cách
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_5_6_tuoi_t.doc