SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn học (kể chuyện) cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi C ở trường mầm non Phú Lộc
Sự phát triển không ngừng của xã hội, đòi hỏi một đất nước phải không ngừng vươn lên ở mọi mặt, để chiếm lĩnh một vị trí trên thế giới. Đất nước Việt Nam đang trên đã hội nhập quốc tế để sánh vai với các cường quốc năm châu, đòi hỏi phải có những chính sách phát triển đất nước cụ thể, sáng tạo và dựa trên thực tế của đất nước mình. Muốn đất nước phát triển được phải có đủ nguồn lực mà nguồn lực quan trọng nhất đó chính là con người. Chính vì thế nhà nước ta luôn chú trọng trong việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, để có thể đưa đất nước lên một tầm cao mới.
Chính sách phát triển giáo dục là một trong những mục tiêu quan trọng của quốc gia, mà đặc biệt việc chú trọng, quan tâm phát triển nguồn lực ngay từ bậc học nầm non luôn được nhà nước quan tâm nhất. Bởi bậc học mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân hình thành nên nhân cách, phẩm chất toàn diện của một đứa trẻ. Theo quan điểm giáo dục của nước ta trong thời đại đổi mới ngày nay đó là nền giáo dục phát triển toàn diện, hướng tới một xã hội học tập nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo. Thực tiễn cho thấy “Tiềm năng và tiềm lực cơ bản của đất nước là con người”. Chính vì vậy mà công tác giáo dục rất quan trọng, đặc biệt là giáo dục lứa tuổi mầm non. Bởi giai đoạn này trẻ em như một tờ giấy trắng bất kì là một hình thức giáo dục nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý trẻ. Do đó biện pháp giáo dục phù hợp đối với trẻ là rất quan trọng và cần thiết góp phần thúc đẩy nhân cách toàn diện cho trẻ.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT HẬU LỘC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC (KỂ CHUYỆN) CHO TRẺ 24-36 THÁNG TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON PHÚ LỘC Người thực hiện: Nguyễn Kim Dung Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường mầm non Phú Lộc SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn THANH HÓA, NĂM 2018 MỤC LỤC Nội dung Trang 1.Mở đầu:........1 1.1.Lý do chọn đề tài:1 1.2.Mục đích nghiên cứu:..1 1. Mở đầu1 1.1. Lý do chọn đề tài.1 1.2. Mục đích nghiên cứu.1 1.3. Đối tượng nghiên cứu2 1.4. Phương pháp nghiên cứu.2 2. Nội dung.2 2.1. Cơ sở lý luận.2 2.2. Thực trạng3 2.3. Các tổ chức thực hiện....5 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm....17 3. Kết luận - Kiến nghị..18 3.1. Kết luận18 3.2. Kiến nghị..19 - Tài liệu tham khảo - Phụ lục 1.MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài. Sự phát triển không ngừng của xã hội, đòi hỏi một đất nước phải không ngừng vươn lên ở mọi mặt, để chiếm lĩnh một vị trí trên thế giới. Đất nước Việt Nam đang trên đã hội nhập quốc tế để sánh vai với các cường quốc năm châu, đòi hỏi phải có những chính sách phát triển đất nước cụ thể, sáng tạo và dựa trên thực tế của đất nước mình. Muốn đất nước phát triển được phải có đủ nguồn lực mà nguồn lực quan trọng nhất đó chính là con người. Chính vì thế nhà nước ta luôn chú trọng trong việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, để có thể đưa đất nước lên một tầm cao mới. Chính sách phát triển giáo dục là một trong những mục tiêu quan trọng của quốc gia, mà đặc biệt việc chú trọng, quan tâm phát triển nguồn lực ngay từ bậc học nầm non luôn được nhà nước quan tâm nhất. Bởi bậc học mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân hình thành nên nhân cách, phẩm chất toàn diện của một đứa trẻ. Theo quan điểm giáo dục của nước ta trong thời đại đổi mới ngày nay đó là nền giáo dục phát triển toàn diện, hướng tới một xã hội học tập nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo. Thực tiễn cho thấy “Tiềm năng và tiềm lực cơ bản của đất nước là con người”. Chính vì vậy mà công tác giáo dục rất quan trọng, đặc biệt là giáo dục lứa tuổi mầm non. Bởi giai đoạn này trẻ em như một tờ giấy trắng bất kì là một hình thức giáo dục nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý trẻ. Do đó biện pháp giáo dục phù hợp đối với trẻ là rất quan trọng và cần thiết góp phần thúc đẩy nhân cách toàn diện cho trẻ. Như chúng ta đã biết ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để cha mẹ, những người lớn có thể chăm sóc, điều chỉnh giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động nhân cách của trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Ngôn ngữ phát triển làm cho tư duy của trẻ phát triển, ngôn nữ phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả sự phát triển về đạo đức, chuẩn mực hành vi văn hóa. Ngôn ngữ phát triển nhằm giúp trẻ tiếp thu những giá trị của thơ ca, truyện kể thông qua người lớn và nó bắt đầu bằng những lời ru, câu chuyện của bà của mẹ, thông qua các hoạt động này được xem như là phương tiện hữu ích để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Trên thực tế cho thấy trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng tuổi còn nói tiếng chưa đủ câu, nói câu chưa có nghĩa chiếm tỉ lệ cao, đây cũng là khó khăn để trẻ tiếp cận với các tác phẩm văn học. Trẻ đang còn nghèo nàn về vốn từ và đôi lúc trẻ chưa biết diễn đạt sao cho rõ ràng điều muốn nói, cho nên hoạt động kể chuyện được đưa vào trong chương trình giáo dục mầm non là quan trọng nhằm phát triển ngôn ngữ, làm giàu vốn từ cho trẻ và đặc biệt là giúp trẻ phát âm chính xác, diễn đạt rõ ràng, nói có ngữ điệu, đúng ngữ pháp, tạo điều kiện cho trẻ có khả năng sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và học tập với chức năng giáo dục bằng phương tiện văn học. Thông qua truyện kể giúp trẻ làm quen với lời hay, ý đẹp, hình tượng trong sáng, tập cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học, từng bước xây dựng cho trẻ lòng yêu thích cái đẹp trong văn học, để phát triển tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động kể chuyện và tình hình thực tế của trường lớp nhiều trẻ còn nói ngọng, nói lắp, nói chưa rõ câu, chưa diễn đạt được ý của mình, tôi đã mạnh dạn trao đổi một số biện pháp nhằm hướng dẫn trẻ tiếp thu bài một cách có hiệu quả tốt nhất. Điều đặc biệt đây cũng là cơ hội để tôi trao đổi, học tập bạn bè, đồng nghiệp để có thể áp dụng các biện pháp vào dạy học bộ môn này.Vì lẽ đó tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn học (kể chuyện) cho trẻ 24-36 tháng tuổi C ở trường mầm non Phú Lộc”. 1.2 Mục đích nghiên cứu: Đề ra một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn học (kể chuyện) cho trẻ 24-36 tháng tuổi C ở trường mầm non Phú Lộc. 1.3 Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao chất lượng hoạt động văn học (kể chuyện) cho trẻ 24-36 tháng tuổi C ở trường mầm non Phú Lộc. 1.4 Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. - Phương pháp thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê và sử lý tài liệu. 2.NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận. Ngôn ngữ đã đi vào tâm hồn trẻ như một món ăn tinh thần không thể thiếu, ngay từ khi bước chân vào trường trẻ mầm non nói chung và trẻ 24-36 tháng nói riêng đã được tiếp xúc với ngôn ngữ, từ những trẻ chậm nói đến trẻ nhút nhát, chưa biết nói các cô giáo đã đem ngôn ngữ ấy len lỏi vào trong những câu truyện, bài thơ để nó đi sâu vào tâm hồn trẻ thơ. Chính vì vậy nó tạo nên sự hấp dẫn kỳ diệu, trẻ nào cũng thích đọc thơ, kể truyện cho cô giáo, bạn bè, ông bà, ba mẹ nghe ở mọi lúc mọi nơi. Khi trẻ tiếp xúc với các câu truyện thì những ấn tượng đẹp đẽ, tính cách nhân vật sẽ hiện ra trước mắt trẻ, làm nảy sinh tư tưởng, tình cảm đạo đức, trí tưởng tượng, niềm tin và hành động nhân đạo, thôi thúc lòng đam mê hướng trẻ vươn tới cái đẹp. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng là một hoạt động giáo dục đóng vai trò rất quan trọng. Do vậy nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải được thực hiện kết hợp vào quá trình dạy các hoạt động khác. Hiện nay, nhằm đổi mới hình thức, tổ chức hoạt động để phát triển toàn diện nhân cách trẻ, tạo điều kiện để phát triển các tính năng như: Nghe, nói.... Do đặc thù ở trẻ nhà trẻ chưa đọc được, viết được, đến lớp với tâm hồn đón đợi hướng về cô giáo là cầu nối của trẻ để trẻ biết được các đức tính tốt, xấu của từng nhân vật, hiểu được cốt truyện để từ đó trẻ phát triển ngôn ngữ của mình được rõ hơn, mạch lạc hơn. Mặt khác, trên thực tế ngôn ngữ đến với trẻ còn gặp nhiều bất cập, đặc biệt là sự tiếp cận với phương pháp truyền tải kiến thức của giáo viên, chưa linh hoạt việc đầu tư nghiên cứu tài liệu còn hạn chế, trang thiết bị còn thiếu. Chính vì vậy mà chất lượng giáo dục trẻ chưa đạt hiệu quả cao. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức,thẩm mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng, mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình để hòa nhập với mọi người. Tuy trẻ còn nhỏ nhưng trẻ rất hiếu động,thích tìm tòi, khám phá mọi thứ xung quanh. Trẻ thường có nhiều thắc mắc trước những đồ vật hiện tượng mà trẻ nhìn thấy,nghe thấy. Để giúp trẻ giải đáp những thắc mắc này, người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn ngọn đồng thời cung cấp cho trẻ thêm những hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ mạch lạc. Chính vì vậy mỗi giáo viên mầm non chăm sóc giáo dục trẻ cần chú trọng đến phát trển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu truyện, để trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ 24 tháng tuổi và 36 tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi còn rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác, trẻ nhận thức về công cụ ngữ pháp và sử dụng nó còn rất hạn chế. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng các loại từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng cách thường xuyên trò chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu thị về các đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu truyện đơn giản qua tranh. Đặt các câu hỏi cho trẻ, giúp trẻ biết kể truyện theo tranh bằng ngôn ngữ của trẻ. 2.2 Thực trạng. * Thuận lợi: Trường mầm non Phú Lộc là trường chuẩn quốc gia, có khuôn viên khang trang, đẹp đẽ đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc và luôn được các cấp các ngành quan tâm. Trường có 13 lớp học, trong đó, có 8 lớp mẫu giáo, 5 nhóm trẻ, có đầy đủ các phòng ban, phòng âm nhạc và các phòng chức năng khác. Có trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học theo từng chủ đề, trường có đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình công tác, 100% giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn. Ban giám hiệu thường xuyên kiểm tra, dự giờ, đánh giá kết quả thi đua của cô và trẻ, lấy chất lượng trẻ để đánh giá chất lượng cô. Trường có diện tích rộng rãi, bằng phẳng, phong cảnh thiên nhiên đẹp, có nhiều cây xanh, sân chơi sạch sẽ thuận tiện cho việc hướng dẫn trẻ hoạt động ngoài trời và có nhiều đồ dùng, đồ chơi phục vụ học tập. * Khó khăn: - Là xã có địa bàn rộng, nhiều thôn cách xa trường nên vào những ngày mưa, giá rét số trẻ đến trường còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học của cô và trẻ. - Số trẻ mới lần đầu ra lớp nên đa số trẻ được bố mẹ cưng chiều, nên chưa làm quen nhiều với các hoạt động chơi tập. Khả giao tiếp ngôn ngữ rõ ràng của trẻ còn hạn chế như: Nói chưa đủ câu, nói trống không, nói lắp, nói ngọng, nói tiếng địa phương, nên rất ảnh hưởng đến việc dạy trẻ trên lớp. - Một số trẻ còn mải chơi chưa hứng thú tập trung chú ý vào giờ học. - Đa số phụ huynh còn mải làm kinh tế nên chưa chú trọng đến con em của mình * Khảo sát thực trạng. Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng.. Nội dung khảo sát Số trẻ Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Tốt Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % Trẻ hứng thú nghe cô kể truyện 15 3 20 4 27 7 46 1 7 0 0 Trẻ nhớ tên truyện và các nhân vật trong truyện 15 5 33 4 27 5 33 1 7 0 0 Trẻ trả lời được câu hỏi của cô 15 3 20 4 27 7 46 1 7 0 0 Trẻ tập kể lại truyện cùng cô 15 3 20 4 27 7 46 1 7 0 0 Với kết quả khảo sát thực trạng trên tôi thấy: Tỷ lệ trẻ đạt tốt, khá, trung bình còn thấp, tỷ lệ trẻ yếu còn cao, ở cả bốn nội dung khảo, nguyên nhân chủ yếu như sau: * Nguyên nhân. + Đối với cô: - Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động giáo dục còn đơn điệu, chưa sinh động không thu hút được trẻ. - Do tiết học còn gò bó chưa thu hút trẻ, trẻ chưa tích cực thực hiện nhiệm vụ cô giáo. - Việc tiếp cận những ứng dụng khoa học (mô hình vườn cổ tích) còn hạn chế. - Đôi khi áp đặt trẻ vào những cái cô đã vạch sẵn ra, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của trẻ khiến trẻ nhàm chán, không hứng thú đến giờ học dẫn đến chất lượng chưa tốt. + Đối với trẻ: - Trẻ còn đang nhút nhát, ngôn ngữ của trẻ còn chưa mạch lạc, khám phá thế giới xung quanh của trẻ còn hạn hẹp. Từ những thực trạng trên, tôi băn khoăn, lo lắng làm sao để trẻ hoạt động với giờ kể truyện đạt hiệu quả cao. Bản thân tôi đã trải qua thời gian nghiên cứu dày công ghi lại qua sách báo, tài liệu và qua đồng nghiệp, tham gia tập huấn các chuyên đề để tìm ra các giải pháp, biện pháp linh hoạt sáng tạo, áp dụng và nâng cao chất lượng giáo dục. 2.3. Các tổ chức thực hiện. * Biện pháp 1: Tạo môi trường cho trẻ 24-36 tháng tuổi hoạt động văn học (kể truyện). Môi trường hoạt động vô cùng quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ và nâng cao chất lượng hoạt động phát triển ngôn ngữ thông qua kể chuyện, chính vì thế tôi luôn chú trọng tạo môi trường hoạt động cho trẻ. + Môi trường trong lớp: Ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh cùng tham gia làm đồ dùng, đồ chơi trang trí lớp nhằm giúp trẻ khám phá, tìm tòi các nhân vật trong truyện và phục vụ cho quá trình chơi tập của trẻ. Tôi tận dụng diện tích phòng xây dựng khu “Bé vui với nhân vật nghộ nghĩnh”. Khu vực “Kể chuyện cùng bé yêu” và bố trí sắp xếp các dụng cụ, đồ dùng tranh ảnh thuận tiện cho trẻ dễ quan sát và hoạt động. Ví dụ 1: Ở chủ đề “Những con vật đáng yêu”. Tôi trang trí lớp bằng các hình ảnh của các nhân vật trong các câu chuyện để trẻ nhớ và khắc sâu nội dung truyện, chẳng hạn ở khu vực “Bé vui với nhân vật ngộ nghĩnh”, tôi vẽ hình ảnh gà vịt đang vui đùa cùng nhau. Ảnh 1: Môi trường trong lớp (Phụ lục). Ví dụ 2: Với chủ đề “Cây, quả, rau và những bông hoa đẹp”. Tôi đặt tên cho khu vực là “Sắc màu của các loại hoa”, bên trong góc này tôi luôn tìm hiểu, sưu tầm tranh trưng bày các loại tranh truyện kể sáng tạo, truyện cổ tích, truyện dân gian và một số tranh ảnh đẹp từ các tạp chí. Khi dẫn dắt trẻ tới những khu vực tôi hướng dẫn trẻ xem tranh từ trái qua phải, từ trên xuống dưới và hướng cho những trẻ giỏi có thể kể truyện sáng tạo khi nhìn thấy các hình ảnh hay nhân vật trong khu vực kể truyện cùng bé yêu để giúp trẻ hiểu nội dung ý nghĩa của cốt truyện và rèn khả năng phát triển ngôn ngữ, vốn từ cho trẻ. + Môi trường ngoài lớp: Tôi luôn chú ý sắp xếp khung cảnh hợp lý để tạo môi trường hoạt động tốt, thoải mái nhất đến cho trẻ, khuôn viên ngoài trời phải thoáng mát, có bóng mát, bầu không khí trong lành, đảm bảo độ an toàn khi trẻ tham gia mọi hoạt động chơi tập. Tôi tận dụng các mảng tường trống để vẽ các nhân vật có trong câu truyện như: Dê con, sóc nâu, gà, vịt, thỏ xây dựng vườn cổ tích, giúp trẻ cảm thấy gần gũi với các nhân vật hơn, biết yêu cái đẹp, cái tốt và ghét cái xấu và có thể gợi mở cho trẻ kể truyện sáng tạo. Ảnh 2: Môi trường ngoài lớp học (Phụ lục). Hiện nay trường tôi đã có “Vườn cổ tích” của các bé, với các câu truyện có trong chương trình. Ông Gióng, Tấm Cám, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn và ngoài ra còn có thêm nhiều hình ảnh vườn hoa, các con vật dê, thỏ, cây nấm để lứa tuổi trẻ 24-36 tháng tuổi có thể cảm nhận và tưởng tượng ra câu truyện đã từng được nghe cô kể. Đây cũng là môi trường bên ngoài được tôi tận dụng triệt để trong quá trình nâng cao hoạt động văn học (Kể chuyện) cho trẻ ở lớp mình. * Biện pháp 2: Làm đồ dùng trực quan phục vụ cho hoạt động văn học (kể truyện) cho trẻ 24-36 tháng. Có thể nói đồ dùng trực quan được xem là “ Quy tắc vàng” trong chương trình giáo dục mầm non, trong các bài dạy của trẻ không thể không có đồ dùng trực quan vì trẻ mầm non chủ yếu là tư duy hình tượng, vì vậy tôi luôn chú ý đến việc làm đồ dùng trực quan thế nào cho đẹp, cho chính xác, sáng tạo, an toàn và sử dụng thế nào cho đúng lúc, đúng chỗ. Trong cuộc sống có rất nhiều những phế liệu tưởng chừng như bỏ đi như: Vỏ cây, rơm rạ, vỏ chai nhựa, lõi giấy vệ sinh, những sợi len dư thừa, hộp sữa, ly nhựa, vải vụn Nhưng đây lại là nguồng nguyên liệu vô cùng phong phú để giáo viên khai thác, sáng tạo ra những đồ dùng, đồ chơi đẹp, hấp dẫn phục vụ cho hoạt động chơi tập của trẻ như làm rối, làm ra những con vật ngộ nghĩnh. Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng, đồ chơi một cách cụ thể, vì thế ở mỗi chủ đề tôi đều chuẩn bị được ít nhất một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi. Ví dụ: Làm đồ dùng trong câu truyện “Thỏ con không vâng lời”, tôi đã làm một sân khấu rối di động, dùng vải may nhân vật thỏ mẹ, thỏ con sau đó trang trí mắt thỏ bằng các khuy áo, râu thỏ bằng các sợi len, bươm bướm tôi sử dụng bằng ống sữa su su để làm thân và xốp tôi làm cánh. Khi cho các nhân vật lên sân khấu tôi sử dụng lò so, con quay lắp vào điện để các nhân vật di chuyển được trên sân khấu rối. Khi kể cho trẻ nghe lần đầu tiên tôi kể diễn cảm, kết hợp với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt. Khi kể lần hai tôi kết hợp với tranh minh họa, ở lần kể thứ ba tôi đưa sân khấu rối vào để kể cho trẻ nghe, khi kể đến cảnh nào thì tôi bật công tắc điện cho các nhân vật tự đi vào. Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi đồ dùng trực quan phải luôn được mới, màu sắc sặc sỡ và không nên sử dụng lâu một loại đồ dùng sẽ gây sự nhàm chán của trẻ, nếu tôi thay đổi hình thức, mẫu mà hoặc cách sử dụng để tạo sự mới mẻ cho trẻ, giúp trẻ khắc sâu được nội dung câu chuyện và dễ nhớ, đặc biệt khi làm đồ dùng trực quan tôi luôn chú ý đến những đồ dùng mang tính động. Ví dụ: Ở chủ đề “Cây quả, rau và những bông hoa đẹp” có câu chuyện “Qủa thị”. Tôi đã dựng lên một sa bàn trang trí các họa tiết xung quanh, cỏ cây, hoa lá, nhân vật bà cụ, vịt, mèo tôi cắt bằng xốp dán đề can, còn cây thị tôi sử dụng cành cây khô quấn len và sử dụng quả bóng nhựa nhỏ đã bị hỏng, tôi sơn màu xanh, màu vàng và lắp công tác điện, khi kể tôi sử dụng công tắc và đưa hình ảnh phối hợp nhịp nhàng cả hai tay gây bất ngờ đối với trẻ. Ảnh 3: Một số hình ảnh cô làm đồ dùng trực quan phục vụ cho hoạt động kể chuyện (Phụ lục). Từ việc làm những đồ dùng ngộ nghĩnh, mới lạ bản thân tôi đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí, mặt khác giúp trẻ hứng thú trong mỗi giờ hoạt động kể chuyện hơn và giúp trẻ khắc sâu về nội dung câu truyện và các nhân vật trong truyện hơn. *Biện pháp 3: Tổ chức hoạt động văn học linh hoạt, nhẹ nhàng, lấy trẻ làm trung tâm. Việc tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua giờ kể truyện trong trường mầm non là một phương tiện không thể thiếu để hỗ trợ cho việc thành công của tiết dạy, chính là đồ dùng trực quan minh họa, lựa chọn phương tiện trực quan sao cho phù hợp có tác dụng giáo dục thẩm mỹ. Phương pháp này phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non, ngôn ngữ hình thể của cô giáo là phương tiện trực quan sinh động nhất, ngôn ngữ nói, đọc diễn cảm rõ ràng, tình cảm hòa quyện giữa âm thanh, nghĩa từ, giữa giọng điệu và cử chỉ điệu bộ sẽ làm sống dạy hình ảnh đẹp trong mắt trẻ. Ngoài ngôn ngữ hình thể thì rối tranh cũng là biện pháp trực quan sinh động giúp trẻ hứng thú và tạo kết quả tốt trong giờ học. Đặc điểm của trẻ là nhận thức từ trực quan đến trừu tượng cho nên nếu không có trực quan thì trẻ không tưởng tượng được, mặt khác sự chú ý của trẻ còn phân tán chưa bền vững, đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn sẽ thu hút sự tập trung chú ý của trẻ hơn. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, rối, mô hình, sa bàn vật thật, sân khấu Đồ dùng trực quan phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ nhằm khắc sâu kiến thức trong câu chuyện, với tôi khi dạy kể truyện cho trẻ tùy vào từng nội dung câu chuyện tôi vận dụng, có những câu chuyện tôi dùng tranh và mô hình sa bàn một cách nhẹ nhàng linh hoạt. +Sử dụng mô hình sa bàn cho trẻ quan sát. Ví dụ1: Trong chủ đề “Tết và mùa xuân” tên bài dạy là kể truyện “Cây táo”. Tôi đã chuẩn bị như sau: Tranh có nội dung câu chuyện, sa bàn, mô hình vườn cây ăn quả. -Hoạt động 1: Tôi cho trẻ hát bài “Qủa” và đi thăm mô hình vườn táo, cô trò chuyện cùng trẻ về mô hình đó. -Hoạt động 2: Cô kể
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_hoat_dong_van_hoc.doc