SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập làm văn miêu tả có hiệu quả

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập làm văn miêu tả có hiệu quả

 Trong dạy học Tiếng Việt, mỗi phân môn đều có một nhiệm vụ riêng, nhưng đích cuối cùng là đạt được mục tiêu của môn Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn là phân môn có nhiệm vụ: “Trang bị kiến thức và rèn kĩ năng làm văn. Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống rèn tư duy lô gic và tư duy hình tượng; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách cho học sinh.”[10]

 Học tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên. Qua các bài văn miêu tả, học sinh được rèn cách nhìn đối tượng, nhận xét, thể hiện thái độ trước cảnh vật; thấy được quan hệ gần gũi giữa người với sự vật định tả. Những cơ hội đó đã làm cho tình cảm yêu mến gắn bó với thiên nhiên, với người và vật nảy nở, tâm hồn và tình cảm của trẻ thêm phong phú. Nó là nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt cho trẻ em. Các em có thể trở thành người con ngoan, hiếu thảo trong gia đình; là những con người có ích hội tụ những phẩm chất tốt đẹp. Để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước, hẳn phải được bắt đầu từ những trang thơ đẹp, áng văn hay của ngày hôm nay.

 Tuy nhiên, từ thực tế dạy học cho thấy rằng, Tập làm văn là phân môn mà học sinh ít “hứng thú”, vì Tập làm văn là văn bản viết, bắt buộc học sinh phải trau chuốt từng lời văn, gọt giũa từng chi tiết, từng hình ảnh. Trong khi đó, khả năng giao tiếp, vốn từ ngữ, khả năng quan sát nhận xét sự vật của các em còn rất hạn chế. Các bài văn miêu tả của các em lại thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa.

 Mặt khác, phân môn Tập làm văn có hệ thống lí thuyết được xây dựng riêng cho từng thể loại như: Tả người, tả cảnh vật, tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. và ở từng thể loại đòi hỏi giáo viên phải có những cách rèn khác nhau để học sinh đạt được những kĩ năng cần thiết. Để viết được bài văn hay, các em cần rèn luyện năng lực quan sát, năng lực thu thập thông tin, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích tổng hợp và các khả năng biểu đạt, bố cục, tạo phong cách. Để giúp học sinh có thể viết được bài văn hay, có hình ảnh, giàu cảm xúc, quả là một việc làm khó. Là giáo viên, nhất là giáo viên dạy lớp 4, 5 không ít người đã băn khoăn, trăn trở về vấn đề này. Song một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn mà không có một sự hướng dẫn nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh và cũng chưa có một tài liệu nào bàn sâu về vấn đề này.

 

doc 20 trang thuychi01 6253
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập làm văn miêu tả có hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT HOẰNG HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 
HỌC TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ CÓ HIỆU QUẢ
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyến
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hoằng Minh
 SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2017
 MỤC LỤC
Nội dung
Trang
	1. 	MỞ ĐẦU
2
1.1. Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. NỘI DUNG
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2. Thực trạng học tập làm văn miêu tả của học sinh lớp 5
4
2.3. Một số biện pháp giúp học sinh học tập có hiệu quả tập làm văn miêu tả
5
2.4. Kết quả nghiên cứu
15
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
16
3.1. Kết luận
16
3.2. Kiến nghị
16
 1. MỞ ĐẦU
 1.1. Lí do chọn đề tài
 Trong dạy học Tiếng Việt, mỗi phân môn đều có một nhiệm vụ riêng, nhưng đích cuối cùng là đạt được mục tiêu của môn Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn là phân môn có nhiệm vụ: “Trang bị kiến thức và rèn kĩ năng làm văn. Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống rèn tư duy lô gic và tư duy hình tượng; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách cho học sinh.”[10]
 Học tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên. Qua các bài văn miêu tả, học sinh được rèn cách nhìn đối tượng, nhận xét, thể hiện thái độ trước cảnh vật; thấy được quan hệ gần gũi giữa người với sự vật định tả. Những cơ hội đó đã làm cho tình cảm yêu mến gắn bó với thiên nhiên, với người và vật nảy nở, tâm hồn và tình cảm của trẻ thêm phong phú. Nó là nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt cho trẻ em. Các em có thể trở thành người con ngoan, hiếu thảo trong gia đình; là những con người có ích hội tụ những phẩm chất tốt đẹp. Để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước, hẳn phải được bắt đầu từ những trang thơ đẹp, áng văn hay của ngày hôm nay. 
 Tuy nhiên, từ thực tế dạy học cho thấy rằng, Tập làm văn là phân môn mà học sinh ít “hứng thú”, vì Tập làm văn là văn bản viết, bắt buộc học sinh phải trau chuốt từng lời văn, gọt giũa từng chi tiết, từng hình ảnh. Trong khi đó, khả năng giao tiếp, vốn từ ngữ, khả năng quan sát nhận xét sự vật của các em còn rất hạn chế. Các bài văn miêu tả của các em lại thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa.
 Mặt khác, phân môn Tập làm văn có hệ thống lí thuyết được xây dựng riêng cho từng thể loại như: Tả người, tả cảnh vật, tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật... và ở từng thể loại đòi hỏi giáo viên phải có những cách rèn khác nhau để học sinh đạt được những kĩ năng cần thiết. Để viết được bài văn hay, các em cần rèn luyện năng lực quan sát, năng lực thu thập thông tin, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích tổng hợp và các khả năng biểu đạt, bố cục, tạo phong cách. Để giúp học sinh có thể viết được bài văn hay, có hình ảnh, giàu cảm xúc, quả là một việc làm khó. Là giáo viên, nhất là giáo viên dạy lớp 4, 5 không ít người đã băn khoăn, trăn trở về vấn đề này. Song một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn mà không có một sự hướng dẫn nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh và cũng chưa có một tài liệu nào bàn sâu về vấn đề này. 
Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy- học Tập làm văn nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 5? Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên là một quá trình và cũng là mục đích cần hướng đến của các thầy cô giáo. Để làm tốt vai trò người tổ chức và hướng dẫn, bản thân tôi đã tìm tòi, phân tích thực trạng và lựa chọn một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt Tập làm văn miêu tả. 
Bởi những lý do trên nên tôi chọn và viết đề tài : “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học Tập làm văn miêu tả có hiệu quả”, trước hết là giúp nâng cao chất lượng Tập làm văn cho lớp mình phụ trách sau đó là góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu 
Tôi nghiên cứu vấn đề này với mục đích tìm ra phương pháp và hình thức dạy học phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy - học Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Hoằng Minh nói riêng và học sinh lớp 5 ở các trường tiểu học nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu các giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm văn miêu tả.
1.4. Phương pháp nghiên cứu 
1.4.1 Phương pháp quan sát: 
Tôi đã quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập để từ đó điều chỉnh hay phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh. 
1.4.2. Phương pháp thực nghiệm:
Tôi đã áp dung dạy thực tế học sinh lớp 5A trường Tiểu học Hoằng Minh kể từ khi xây dựng kế hoạch.
1.4.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
Tôi đã chấm bài rất kĩ để thấy được những thiếu sót, những chỗ hổng của học sinh để từ đó đề ra các giải pháp, xây dựng kế hoạch cho việc thực hiện dạy học đạt chất lượng cao.
1.4.4. Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm:
Tôi đã tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm của giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh học tập trên lớp, ở nhà,từ đó rút ra được những bài học và nêu được những biện pháp khắc phục tồn tại.
1.4. 5. Phương pháp đàm thoại:
 Phương pháp đàm thoại, trò chuyện là một hình thức tốt nhất để tôi có thể gần gũi các em, phụ huynh. Qua đó tôi biết được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng hay khó khăncủa các em về việc học ở lớp, cũng như ở nhà như thế nào. Từ đó có phương pháp và hình thức tổ chức dạy - học thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả dạy- học.
1.4.6. Phương pháp thống kê, tính toán:	
Qua những thông tin tài liệu thu thập được, tôi đã vận dụng phương pháp này để thống kê lại tình hình và tính toán các số liệu cần thiết và biết được chất lượng học tập của học sinh thời gian sau so với thời gian trước như thế nào.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận 
 Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ năng từ các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài tập làm văn.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài học. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy- học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả cảnh, tả người) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ và câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người,...
Bài tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
 - Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu, yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra.
 - Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 4, lớp 5.
 2.2. Thực trạng học tập làm văn miêu tả của học sinh lớp 5
 2.2.1. Thực trạng
 Năm học 2016 – 2017, tôi được phân công phụ trách lớp 5A với 21 học sinh. Hầu hết học sinh của lớp 5A tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế về làm bài Tập làm văn. Sau khi nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tôi nhận thấy học sinh lớp 4 đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật. Nhưng qua bài kiểm tra Tập làm văn với đề bài: Tả một cây bóng mát(hoặc một cây ăn quả) mà em biết, lớp tôi có tới 8/21 (38,1%) bài làm chưa đạt yêu cầu.
 * Một số hạn chế của học sinh là:
 - Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả.
 - Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài.
 - Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt chưa rõ ý, lủng củng. Nhiều em chưa biết dừng lại để tả kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
 - Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt. 
 - Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
 Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh không đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh chưa hoàn thành Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân.
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng
 - Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
 - Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
- Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả.
- Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát.
- Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó.
- Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
 2.3. Một số biện pháp giúp học sinh học tập có hiệu quả tập làm văn miêu tả 
Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau đây để nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tôi.
 2.3.1. Dạy xác định yêu cầu trọng tâm đề bài
 Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng tâm.
 Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). 
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải giúp học sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung bài viết:
Với đề bài trên, giáo viên dẫn dắt để học sinh nắm được 3 yêu cầu trọng tâm như sau :
 a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
 b. Yêu cầu về nội dung là: Cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
 c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên.).
 Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
 2.3.2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
“Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy” [2], tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc điểm sự vật, giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự sau sao cho phù hợp với từng đề bài cụ thể:
 a. Tả theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,..
 b. Tả theo trình tự thời gian:
 Miêu tả theo diễn biến theo thời gian, từ bắt đầu đến kết thúc, cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người.
Ví dụ : “Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”[1]
 c. Tả theo trình tự tâm lí:
* Khi quan sát thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng.
Ví dụ : “Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức đặc biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa... Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm... Hoa đậu từng chùm màu trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...”.
Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng.
* Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...) để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ : Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả đã quan sát bằng các giác quan như sau:
- Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
- Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
- Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận mưa đầu mùa.
- Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót của chào mào.
2.3.3. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả
Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng miêu tả. Mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm xúc của mình.
* Đối với kiểu bài tả cảnh
Kiểu bài tả cảnh học sinh cần xác định các yêu cầu sau:
a. Xác định không gian, thời gian nhất định:
Giáo viên cần giúp học sinh biết được khi tả cảnh phải quan sát và miêu tả bao quát toàn cảnh trước rồi đến từng bộ phận của cảnh và tả cảnh ấy vào lúc nào.
Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định, học sinh cần biết lựa chọn trình tự quan sát, miêu tả. 
b. Xác định trình tự miêu tả:
Khi tả học sinh phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả. Tả từ trên xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... là tuỳ thuộc đặc điểm của cảnh.
Ví dụ: Tả từ ngoài vào trong: “Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiềumàu sắc bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”[1]
c. Chọn nét tiêu biểu:
Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc điểm đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp phần làm cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn.
 Ví dụ: Trong bài Kì diệu rừng xanh, khi tả rừng, tác giả đã tập trung làm nổi bật vẻ đẹp kì thú của những cây nấm: “Loanh quanh trong rừng, chúng tôi đi vào một lối đầy nấm dại, thành phố nấm lúp xúp dưới bóng cây thưa. Những chiếc nấm to bằng cái ấm tích, màu sặc sỡ rực lên. Mỗi chiếc nấm là một lâu đài kiến trúc tân kì. Tôi có cảm giác mình là một người khổng lồ đi lạc vào kinh đô của vương quốc những người tí hon. Đền đài, miếu mạo, cung điện của họ lúp xúp dưới chân.”
d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan:
Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo trong nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh như thế nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Nhà thơ Lê Anh Xuân, trong niềm vui của ngày Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, đất nước thoát khỏi ách ngoại xâm, bằng tâm trạng hạnh phúc nhất, ông đã thốt lên:
“Bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đôi mươi.”
Đây chính là phần hồn của cảnh. Cảnh không có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức sống.
e. Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:
Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh hoặc nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
Ví đụ: Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “ Chiều tối” của Phạm Đức (Sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 22): “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng”.
Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”. 
Tác giả đã dùng mắt để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã dùng tai để nghe tiếng dế và dùng mũi để cảm nhận hương vườn và cũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi viết: 
“Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi vật.”
“Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”
“ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”
* Đối với kiểu bài văn tả người
Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở những đặc điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng dẫn học sinh “miêu tả người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả.
 Ví dụ: Trong bài văn “Người thợ rèn” (SGK lớp 5- tập 1- trang 123). Tác giả miêu tả người thợ rèn đang làm việc:
“Anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch.”
Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình ảnh người thợ rèn như một người chinh phục dũng mãnh và thấy rõ quá trình biến thỏi thép thành một lưỡi rựa.
Vì thế, để làm được bài văn tả người thành công, học sinh cần nắm vững những yêu cầu sau:
a. Chú ý khi tả ngoại hình, hoạt động:
Khi tả ngoại hình, hoạt động của người cần chú ý đến tuổi tác, mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát triển về cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện theo giới tính, thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống. Khi miêu tả cần tập trung vào việc làm sao nêu được cái chung và cái riêng của người được miêu tả.
b. Quan sát, trò chuyện trực tiếp:
Để rút ra được những nét riêng, nét nổi bật của người định tả, học sinh cần phải quan sát trực tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý kiến với người đó: quan sát khuôn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách nói, cử chỉ, thao tác lúc làm việc (chọn và quan sát người định tả trong thời gian chuẩn bị bài mới ở nhà). Ta cũng cần dùng cách quan sát gián tiếp thông qua trí nhớ hoặc nhận xét của một người khác về người định tả để bổ sung những thông tin cần thiết.
c. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động:
Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt, từng bộ phận để tả nhưng để nội dung bài văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình, tính nết đan xen với tả hoạt động.
Ví dụ : “ Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai, xoã xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tó

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_hoc_tap_lam_van_mi.doc