SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 rèn kĩ năng tính giá trị biểu thức

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 rèn kĩ năng tính giá trị biểu thức

 Môn Toán là một môn học chiếm một vị trí rất quan trọng và then chốt trong nội dung chương trình các môn học bậc tiểu học. Nó không chỉ truyền thụ và rèn luyện kỹ năng tính toán để giúp các em học tốt các môn học khác mà còn giúp các em rèn luyện trí thông minh, óc tư duy sáng tạo, khả năng tư duy lôgic, làm việc khoa học. Đồng thời qua đó rèn luyện kĩ năng tính toán cho học sinh. Việc tính đúng và tính cẩn thận, đó là một việc làm hết sức quan trọng giúp các em có tính cẩn thận, chu đáo trong cuộc sống. Vì vậy chúng ta cần phải quan tâm tới việc dạy toán ở Tiểu học.

“Tính giá trị biểu thức”ở Tiểu học thuộc phần kiến thức số học. Biểu thức không được định nghĩa bằng khái niệm cụ thể mà chỉ giới thiệu “hình thức thể hiện” là các số, các chữ liên kết bởi các dấu của phép tính. Biểu thức đã được giới thiệu ngay từ lớp 1 thông qua các phép cộng, trừ. Ở lớp 2, dạy học về phép nhân, phép chia. Tuy nhiên, đến lớp 3 mới hình thành biểu tượng về biểu thức. Chương trình sách giáo khoa ở lớp 3 xây dựng ba dạng bài tính giá trị biểu thức cơ bản, rõ ràng và có cách tính cho từng dạng bài: Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân, chia; biểu thức có dấu cộng, trừ, nhân, chia; biểu thức có dấu ngoặc đơn. Ngoài ra, còn nhiều dạng bài mới về tính giá trị biểu thức đòi hỏi học sinh phải tư duy cao hơn, phải có kĩ năng vận dụng thành thạo các dạng cơ bản đã học để thực hiện yêu cầu như: Biểu thức chỉ có một dấu phép tính nhưng nhiều số, viết thành biểu thức rồi tính, tìm số, . đều là những dạng bài có nhiều số hoặc nhiều phép tính.

Thực tế, học “Tính giá trị biểu thức” không phải khó đối với học sinh. Song kĩ năng tính toán của học sinh còn hạn chế nên nhiều em đã làm sai ngay từ những biểu thức đơn chỉ với 1 phép tính. Khi học biểu thức 2 phép tính trở lên, đa số học sinh còn lúng túng, nhầm lẫn khi thực hiện thứ tự các phép tính trong biểu thức, nhầm lẫn cách làm các dạng bài dẫn đến sai kết quả tính. Một mặt, do giáo viên chưa hệ thống các kiểu bài tập đa dạng, khác nhau về 1 dạng bài để các em được luyện tập và nâng cao kĩ năng.

Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi thấy tính giá trị biểu thức là cơ sở để học các mạch kiến thức khác như: hình học, giải toán và vận dụng tính toán trong đời sống thực tế. Vì vậy, làm cách nào để học sinh lớp 3 nói chung, học sinh tiểu học nói riêng học tốt các dạng bài tính giá trị biểu thức là một vấn đề trăn trở đối với mỗi giáo viên Tiểu học. Do đó, trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy, tôi muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp kinh nghiệm nhỏ: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 rèn kĩ năng Tính giá trị biểu thức”.

 

doc 24 trang thuychi01 41225
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 rèn kĩ năng tính giá trị biểu thức", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 
 RÈN KĨ NĂNG TÍNH GIÁ TRỊ BIỂU THỨC.
 Người thực hiện: Lê Thị Khuyên
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Phú- Thọ Xuân
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán
THANH HOÁ NĂM 2018
	MỤC LỤC
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
Trang
1
MỞ ĐẦU
1
1.1
Lý do chọn đề tài.
1
1.2
Mục đích nghiên cứu.
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu.
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu.
2
2
NỘI DUNG
2
2.1
Cơ sở lí luận.
2
2.2
Thực trạng vấn đề.
3
2.3
Các giải pháp tổ chức thực hiện.
5
2.3.1
Giải pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên.
5
2.3.2
Giải pháp 2: Phân loại đối tượng học sinh.
6
2.3.3
Giải pháp 3: Ôn tập, củng cố kiến thức cơ bản có liên quan đến “Tính giá trị biểu thức”.
7
2.3.4
Giải pháp 4: Giúp học sinh có kĩ năng “Tính giá trị biểu thức” trong các tiết học chính khóa.
8
2.3.5
Giải pháp 5: Ôn tập, củng cố các dạng bài “Tính giá trị biểu thức”.
12
2.3.6
Giải pháp 6: Hướng dẫn học sinhthực hành các dạng bài “Tính giá trị biểu thức” mở rộng và nâng cao.
15
2.3.7
Giải pháp 7: Tuyên dương khen thưởng học sinh.
18
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
19
3
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
19
3.1
Kết luận:
19
3.2
Kiến nghị:
20
	1. MỞ ĐẦU
 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 	
	Môn Toán là một môn học chiếm một vị trí rất quan trọng và then chốt trong nội dung chương trình các môn học bậc tiểu học. Nó không chỉ truyền thụ và rèn luyện kỹ năng tính toán để giúp các em học tốt các môn học khác mà còn giúp các em rèn luyện trí thông minh, óc tư duy sáng tạo, khả năng tư duy lôgic, làm việc khoa học. Đồng thời qua đó rèn luyện kĩ năng tính toán cho học sinh. Việc tính đúng và tính cẩn thận, đó là một việc làm hết sức quan trọng giúp các em có tính cẩn thận, chu đáo trong cuộc sống. Vì vậy chúng ta cần phải quan tâm tới việc dạy toán ở Tiểu học. 
“Tính giá trị biểu thức”ở Tiểu học thuộc phần kiến thức số học. Biểu thức không được định nghĩa bằng khái niệm cụ thể mà chỉ giới thiệu “hình thức thể hiện” là các số, các chữ liên kết bởi các dấu của phép tính. Biểu thức đã được giới thiệu ngay từ lớp 1 thông qua các phép cộng, trừ. Ở lớp 2, dạy học về phép nhân, phép chia. Tuy nhiên, đến lớp 3 mới hình thành biểu tượng về biểu thức. Chương trình sách giáo khoa ở lớp 3 xây dựng ba dạng bài tính giá trị biểu thức cơ bản, rõ ràng và có cách tính cho từng dạng bài: Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân, chia; biểu thức có dấu cộng, trừ, nhân, chia; biểu thức có dấu ngoặc đơn. Ngoài ra, còn nhiều dạng bài mới về tính giá trị biểu thức đòi hỏi học sinh phải tư duy cao hơn, phải có kĩ năng vận dụng thành thạo các dạng cơ bản đã học để thực hiện yêu cầu như: Biểu thức chỉ có một dấu phép tính nhưng nhiều số, viết thành biểu thức rồi tính, tìm số, .... đều là những dạng bài có nhiều số hoặc nhiều phép tính.
Thực tế, học “Tính giá trị biểu thức” không phải khó đối với học sinh. Song kĩ năng tính toán của học sinh còn hạn chế nên nhiều em đã làm sai ngay từ những biểu thức đơn chỉ với 1 phép tính. Khi học biểu thức 2 phép tính trở lên, đa số học sinh còn lúng túng, nhầm lẫn khi thực hiện thứ tự các phép tính trong biểu thức, nhầm lẫn cách làm các dạng bài dẫn đến sai kết quả tính. Một mặt, do giáo viên chưa hệ thống các kiểu bài tập đa dạng, khác nhau về 1 dạng bài để các em được luyện tập và nâng cao kĩ năng. 
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi thấy tính giá trị biểu thức là cơ sở để học các mạch kiến thức khác như: hình học, giải toán và vận dụng tính toán trong đời sống thực tế. Vì vậy, làm cách nào để học sinh lớp 3 nói chung, học sinh tiểu học nói riêng học tốt các dạng bài tính giá trị biểu thức là một vấn đề trăn trở đối với mỗi giáo viên Tiểu học. Do đó, trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy, tôi muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp kinh nghiệm nhỏ: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 rèn kĩ năng Tính giá trị biểu thức”.
Đối với đề tài này, tôi chỉ đi sâu nghiên cứu để giúp học sinh làm chắc dạng “Tính giá trị biểu thức” học trong chương trình Toán lớp 3. Mong rằng sẽ nhận được sự góp ý chân thành của các cấp quản lí và các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn và áp dụng rộng rãi trong giảng dạy.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Mục đích nghiên cứu là tìm ra những biện pháp rèn cho học sinh lớp 3 kĩ năng tính giá trị biểu thức. Kĩ năng tính toán và giải các dạng toán trong chương trình.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 
Với đề tài này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu và áp dụng giảng dạy cho học sinh lớp 3C do tôi chủ nhiệm và học sinh khối 3 trong 2 năm học 2016 – 2017; 2017 - 2018.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện đề tài này tôi đã vận dụng những phương pháp để nghiên cứu như sau:
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. 
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
+ Phương pháp điều tra. 
 + Phương pháp luyện tập - thực hành.	
	+ Phương pháp hỏi - đáp.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
 Trong toán học Biểu thức là một dãy các số, dấu phép tính viết xen kẽ với nhau. Còn giá trị của biểu thức chính là kết quả của biểu thức.
Chương trình toán Tiểu học, học sinh từ lớp 1 đến lớp 3 được học các kiến thức liên quan đến biểu thức và được phát triển dần theo vòng số như sau:
Lớp 1: Học về các số đến 10; đọc, đếm, viết các số đến 10; Bảng cộng, trừ các số trong phạm vi 10. Đọc, viết, đếm các số đến phạm vi 100. Phép cộng, trừ (không nhớ) trong phạm vi 100. Thực hiện dãy tính có đến hai dấu phép tính cộng, trừ (trường hợp đơn giản). Giải toán có lời văn, ... 
Lớp 2: Học về phép cộng, trừ các số trong phạm vi 100; phép cộng, trừ các số trong phạm vi 1000. Các bảng nhân, chia từ 2 đến 5. Thực hiện dãy tính có đến 2 dấu phép tính cộng, trừ hoặc nhân, chia xong chưa hình thành quy tắc tính. Tìm thành phần chưa biết. Giới thiệu các phần bằng nhau của đơn vị. Giải toán có lời văn, ...
Lớp 3: Củng cố bảng nhân, chia từ 2 đến 5. Bổ sung cộng, trừ các số có ba chữ số (có nhớ 1 lần). Lập bảng nhân (chia) 6, 7, 8, 9. Nhân, chia ngoài bảng trong phạm vi 1000. Tìm thành phần chưa biết của phép tính. Tính chu vi một số hình. Đặc biệt, ở lớp 3 học sinh được làm quen với biểu thức số và giá trị biểu thức, giới thiệu thứ tự thực hiện các phép tính trong biểu thức số có đến hai dấu phép tính, có dấu ngoặc. Học sinh được làm quen với vòng số lớn hơn: phép cộng, trừ có nhớ. Phép nhân, chia các số trong phạm vi 10 000; Nhận biết các số trong phạm vi 100 000, phép cộng, trừ có nhớ các số có 5 chữ số. Nhân, chia các số có 5 chữ số với các số có 1 chữ số. Tính diện tích một số hình. Tiếp tục tính giá trị của biểu thức có đến 2 dấu phép tính; Gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần; giải toán, 
Lớp 4, lớp 5: Học sinh tiếp tục học cộng, trừ, nhân, chia nhưng vòng số lớn hơn. Xoay quanh dạng phép cộng, trừ, nhân, chia đó, học sinh tiếp tục học các dạng bài tập tính giá trị của biểu thức, giải toán có liên quan đến phép tính giải bằng hai cách.
Đối với dạng bài “Tính giá trị biểu thức” ở lớp 3, ngoài 3 dạng cơ bản trong sách giáo khoa đã cung cấp, tôi mở rộng và cung cấp thêm cho học sinh một số dạng bài về tính giá trị biểu thức có nhiều hơn 2 dấu phép tính nhưng vừa sức với học sinh, giúp các em vận dụng tốt các dạng bài đã học và nâng cao kĩ năng tính giá trị biểu thức. Cụ thể có các dạng như sau:
* Biểu thức dạng yêu cầu tính nhanh, tính thuận tiện, hợp lý:
+ Dạng biểu thức là một tổng các số hạng cách đều.
+ Dạng biểu thức tính nhanh bằng việc nhóm thành các cặp số tròn trăm, tròn nghìn.
+ Dạng biểu thức có chứa biểu thức trong ngoặc có giá trị bằng 0, bằng 1.
Đa số học sinh làm sai hoặc lúng túng khi gặp các dạng bài chưa có quy tắc này.
2.2. Thực trạng vấn đề.
Thưc tế, tính giá trị biểu thức là mạch kiến thức quan trọng, vận dụng thường 
xuyên trong quá trình học tập môn Toán và trong đời sống, tâm lý các em đều thích học môn Toán hơn các môn học khác. Tuy nhiên, lên đến lớp 3, với vòng số lớn hơn, yêu cầu tính giá trị biểu thức từ 2 đến 3 phép tính và các dạng bài tập đa dạng, học sinh hay làm sai thậm chí bỏ qua những bài khó không giống các dạng cơ bản sách giáo khoa khi được giao trong đề ôn tập hoặc kiểm tra. Khi thực hiện 3 dạng bài các em còn nhầm lẫn cách tính giữa dạng 1 với dạng 2 và dạng 3. Đặc biệt, khi mở rộng các dấu phép tính các em còn làm sai. Vậy, nguyên nhân vì đâu? Để tìm hiểu nguyên nhân tôi đã căn cứ vào thực tế việc dạy học trên lớp khi dạy xong 3 dạng bài tính giá trị biểu thức trong chương trình sách giáo khoa Toán 3. Vào tháng 10 năm học 2016 – 2017; 2017 – 2018, tôi đã ra đề khảo sát kiểm tra phần tính giá trị của biểu thức như sau:
§ề kiểm tra (Thêi gian: 40phót)
Bài 1: Tính giá trị của biểu thức:
a) 156 - 87 + 25 b) 213 8 : 2 c) 66 : 3 + 216 d) 97 - 12 3
Bài 2: Tính giá trị của biểu thức.
a) 360 : (3 + 2) b) (88 : 4) 2
Bài 3: Tính giá trị biểu thức sau bằng cách hợp lý:
 125 + 363 + 75 + 37 54 + 63 + 37 + 46
SAU ĐÂY LÀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT:
Năm học 2016 - 2017:
Tổng số
 HS
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
33 em
Bài 1
6 em = 18,2%
10 em = 30,3%
9 em = 27,3%
8 em = 24,2%
Bài 2
7 em = 21,2%
11 em = 33,4%
8 em = 24,2%
7 em = 21,2%
Bài 3
4 em = 12,1%
9 em = 27,3 %
10 em= 30,3%
10em = 30,3%
Năm học 2017 - 2018:
Tổng số
 HS
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
33 em
Bài 1
7 em = 21,2%
10 em = 30,3%
10 em = 30,3%
6 em = 18,2%
Bài 2
8 em = 24,2%
11 em = 27,4%
8 em = 24,2%
6 em = 18,2%
Bài 3
5 em = 15,2%
10 em = 30,3%
10 em = 30,3%
8 em = 24,2%
Từ kết quả trên, tôi nhận thấy: Kĩ năng tính giá trị biểu thức của học sinh còn nhiều hạn chế. Các em vẫn còn làm sai kết quả tính và nhầm lẫn cách làm các dạng bài. Để khắc phục tình trạng trên, tôi tìm ra lỗi sai của các em trong từng dạng bài và
nguyên nhân của những tồn tại đó để từ đó có những giải pháp kịp thời, phù hợp, giúp các em nắm vững các dạng bài về tính giá trị biểu thức.
a. Những tồn tại của học sinh trong từng dạng bài tính giá trị biểu thức.
* Trường hợp 1: Đối với các biểu thức đơn: (Biểu thức chỉ có 2 số và 1 dấu phép tính)
+ Đối với biểu thức đơn có 1 phép tính: cộng, trừ, nhân, chia có nhớ, đa số học sinh sai do quên không nhớ khi thực hiện tính hoặc do không thuộc các bảng cộng, trừ, nhân, chia đã học nên tính sai kết quả.
* Trường hợp 2: Đối với các biểu thức có 2 dấu phép tính.
+ Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân, chia.
Ví dụ: Tính giá trị biểu thức sau:
a) 163 + 50 + 6 b) 329 – 20 + 5 c) 84 : 3 2 - Một số học sinh đã làm bài như sau:
a) 163 + 50 + 6 = 163 + 56 b) 329 – 20 + 5 = 329 – 25 c) 84 : 3 2 = 84 : 6 
 = 219 = 304 = 14 
 + Câu a: Học sinh sai không nắm được cách tính giá trị biểu thức ở dạng 1. Thø tù c¸ch tính biểu thức từ phải sang trái. 
 + Câu b, c: Học sinh sai vì nhầm lẫn với cách tính ở dạng 2. Do đó, khi gặp các dạng biểu thức có 2 phép tính: nhân và chia; cộng và trừ các em không thực hiện tính theo thứ tự từ trái sang phải mà thực hiện tính phép nhân trước rồi đến phép chia, phép cộng trước rồi đến phép trừ. 
+ Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân, chia.
Với dạng bài này, tôi nhận thấy ngoài việc học sinh nhân, chia, cộng, trừ sai, thì học sinh thường mắc lỗi sai khi viết kết quả biểu thức sau dấu bằng thứ nhất.
Ví dụ: Tính giá trị của biểu thức:
a) 500 + 6 7	b) 304 + 93 : 3
- Một số học sinh đã làm như sau:
a) 500 + 8 6 = 48 + 500 b) 304 + 93 : 3 = 31 + 304 
 = 548 = 335
Học sinh làm sai vì viết chưa đúng vị trí kết quả trong biểu thức vì cho rằng “trong biểu thức có dấu cộng, trừ, nhân, chia ta thực hiện các phép tính nhân, chia trước, thực hiện các phép tính cộng, trừ sau”. Do đó, thực hiện phép nhân, chia trước thì viết kết quả trước rồi với cộng số hạng còn lại.
+ Biểu thức có dấu ngoặc.
Ví dụ: Tính giá trị biểu thức:
a) (45 + 15) 2	 b) 45 (4 : 2) c) 124 ( 42 – 40)
- Một số học sinh đã làm sai như sau: 
a) (45 + 15) 2 = 45 + 30 b) 45 (4 : 2) = 180 : 2 c)124 (42 – 40) = 2 124
 = 75 = 90 = 248
+ Câu a: Học sinh làm sai vì thực hiện phép tính nhân trước, thực hiện phép tính cộng sau. 
 + Câu b: Học sinh làm sai vì thực hiện phép tính nhân rồi mới đến phép tính chia.
 + Câu c: Học sinh làm sai vì cho rằng tính phép tính trong ngoặc trước thì viết kết quả trước.
b. Nguyên nhân của những tồn tại.
Từ những tồn tại của các em khi thực hành các dạng bài tính giá trị biểu thức
tôi đã tìm ra một số nguyên nhân cơ bản như sau:
+ Giáo viên đôi lúc chưa linh hoạt trong giảng dạy, chưa đầu tư nghiên cứu tìm ra phương pháp giảng dạy hợp lý đối với từng dạng bài. Chưa khắc sâu cách làm từng dạng bài cho học sinh.
+ Một số em có lực học không ổn định và nhanh quên kiến thức; kĩ năng tính toán của một số em còn sai; học sinh chưa thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia.
+ Lên đến lớp 3, các em được thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân có nhớ nhưng khi thực hiện các em thường quên không nhớ hoặc cộng, trừ, nhân, chia sai. Học sinh chưa hiểu bản chất của từng quy tắc, chưa nắm vững cách tính của từng dạng tính giá trị biểu thức. 
+ Học sinh chưa được làm quen với các dạng bài tập mở rộng về tính nhanh giá trị biểu thức nên hầu hết các em tính sai hoặc đưa ra cách tính chưa hợp lý khi thực hiện yêu cầu bài tập. 
+ Do hoàn cảnh gia đình các em hầu hết là gia đình nông nghiệp, nhiều em có hoàn cảnh khó khăn, đi học thiếu đồ dùng học tập, sức khỏe không tốt nên khả năng tiếp thu bài học của các em trên lớp không tốt. 
Từ thực trạng như trên, để học sinh có được các kĩ năng tính giá trị biểu thức một cách chắc chắn, bền vững. Tôi đã tích cực học tập, tham khảo các tài liệu môn Toán và đã tìm ra phương pháp dạy kĩ năng tính giá trị biểu thức cho học sinh lớp 3. Sau đây tôi xin trình bày các giải pháp mà tôi đã thực hiện như sau.
2. 3. Các giải pháp tổ chức thực hiện.
 Giải pháp 1: Tự học và tự bồi dưỡng của giáo viên.
Tự học, tự bồi dưỡng là phương thức tốt nhất giúp người giáo viên tiến bộ, trưởng thành, có đủ phẩm chất năng lực chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục đào tạo được giao. Tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho mình, tôi nghĩ không phải là trong một, hai ngày mà là cả một quá trình làm nghề dạy học. Ý thức được điều đó, tôi luôn tự học hỏi nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân mình. 
Ngay từ đầu năm học, dưới sự chỉ đạo của BGH, tôi đã xây dựng cho mình kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng một cách khoa học nhất. Trong kế hoạch tôi đã xác định được mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp tự học, tự bồi dưỡng. Với các chuyên đề nhà trường tổ chức, tôi đã tự mình tìm hiểu nội dung chương trình của các lớp, tìm hiểu mục tiêu của các tiết học để cùng tham gia thảo luận đóng góp ý kiến với đồng nghiệp.
Khi được giao nhiệm vụ dạy lớp 3, tôi đã tìm hiểu sâu về chương trình nói chung và dạy tính giá trị biểu thức nói riêng, chỗ nào băn khoăn chưa hiểu tôi hỏi ngay đồng nghiệp, chuyên môn để được tháo gỡ. Nắm vững bản chất dạng Tính giá trị biểu thức tôi chú trọng nghiên cứu diễn đạt câu từ một cách dễ hiểu nhất để truyền đạt cho các em. 
 Đặc biệt, dưới sự góp ý của Ban giám hiệu qua các tiết dự giờ, kiểm tra của bản thân hay của đồng nghiệp, tôi tiếp thu và chỉnh sửa nghiêm túc. Ngoài ra, tự bản thân luôn học hỏi bạn bè đồng nghiệp trong nhà trường, liên tục tham gia dự giờ đồng nghiệp trong khối để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như khả năng truyền đạt giúp học sinh nắm vững cách làm bài trong mỗi tiết học. 
Qua các việc làm trên, tôi thấy mình vững vàng hơn về kiến thức và phương pháp. Không những thế, tôi đã nắm vững nội dung chương trình ở từng khối lớp và đứng ở vị trí lớp nào tôi cũng có thể dạy được. 
Như vậy, với ý thức trách nhiệm trong công việc đến nay tôi đã có trình độ chuyên môn vững vàng hơn trong dạy học. Xây dựng được kế hoạch dạy từng mạch kiến thức cho học sinh một cách vững chắc. Học sinh được cung cấp các mạch kiến thức trong sách giáo khoa ngắn gọn, đúng và dễ hiểu nhất từ giáo viên. Đó là kết quả nghiên cứu tìm tòi, học hỏi thực sự mà tôi tâm đắc. Tôi đem kết quả đó vào chương trình dạy học cho học sinh lớp 3 trong năm học 2017 – 2018.
Giải pháp 2: Phân loại đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học.
 Trong một lớp học thì lực học của học sinh thường không đồng đều nên việc giáo viên nắm bắt được lực học của từng học sinh trong lớp là nhiệm vụ đầu tiên và cũng hết sức quan trọng. Từ đó, giáo viên có những giải pháp giúp các em đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học. Chính vì vậy, qua theo dõi thực tế lực học của lớp, tôi chia học sinh thành các nhóm sau:
+ Nhóm 1: Học sinh bị rỗng kiến thức ở lớp dưới: 11/33 em
+ Nhóm 2: Học sinh thiếu điều kiện học tập do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ không quan tâm: 4/33 em.
+ Nhóm 3: Học sinh không chú ý học, nghịch ngợm: 4/33 em
+ Nhóm 4: Học sinh tiếp thu bài tốt, tích cực học bài: 14/33 em.
 Sau khi phân loại được đối tượng học sinh, tôi giải thích để các em hiểu và biết các em còn chưa đạt chuẩn phần kiến thức nào. Sau đó, tôi cho các em tự đăng kí thi đua theo mẫu in sẵn. Tất cả 33/33 em đều đăng kí đạt chuẩn kiến thức kĩ năng của tất cả các môn học. Đặc biệt, có nhiều em mạnh dạn đăng kí các danh hiệu thi đua cuối năm. Sau đó, tôi lập ngay kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng học sinh theo từng nhóm.
+ Nhóm 1: Đây là nhóm học sinh tôi quan tâm nhiều nhất. Tôi vừa phải giúp các em nhớ lại kiến thức cũ, vừa phải đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng trong từng tiết học. Nên tôi liên tục kiểm tra các phép tính cộng, trừ, nhân, chia bằng nhiều hình thức khác nhau: đọc thuộc lòng, phiếu bài tập, chấm bài thường xuyên,
+ Nhóm 2: Với đối tượng học sinh này, tôi đến nhà để tìm hiểu điều kiện hoàn cảnh của học sinh đó; vận động phụ huynh và học sinh trong lớp giúp đỡ về: sách vở, đồ dùng. Ngoài ra, tôi luôn lắng nghe tâm sự để chia sẻ động viên các em kịp thời.
+ Nhóm 3: Trường hợp học sinh nghịch ngợm, không chú ý trong giờ học, tôi xếp cho các học sinh đó ngồi ngay bàn đầu và xếp em học sinh ngoan, học giỏi bên cạnh để giúp đỡ, kèm cặp. Trong giờ học, tôi thường xuyên quan tâm đến học sinh đó bằng cách gọi trả lời các câu hỏi, khen ngợi và động viên khích lệ các em khi có sự tiến bộ
+ Nhóm 4: Là nhóm học sinh ngoan, tiếp thu bài tốt, ngoài những bài tập yêu cầu cần đạt chuẩn, tôi luôn chuẩn bị thêm một số bài tập nâng cao hơn để giúp các em phát huy khả năng của mình.
 Ngoài ra, với học sinh nhóm 1, 2, 3 tôi luôn đánh giá các em theo hướng động viên, khuyến khích còn nhóm 4 tôi đánh giá theo sự sáng tạo. Bên cạnh đó, trong thời gian dạy buổi 2, tôi dành nhiều thời gian để ôn tập củng cố lại các bảng nhân, chia, cộng, trừ với nhiều hình thức: đọc đồng thanh từng bảng nhân, chia; bằng cách nối tiếp, cá nhân, thi đọc thuộc lòng, hỏi vấn đáp nhanh các phép tính cộng, trừ trong bảng đã học ở lớp 2, giải toán liên quan đến tính giá trị biểu thức với mục đích giúp các em nhớ lại các dạng bài đã học. 
 Sau thời gian được ôn tập và có hệ thống, học sinh lớp tôi có nhiều chuyển biến tích cực trong học tập: đi học chuyên cần, tích cực tự giác học bài và biết vận dụng vào tính giá trị của biểu thức tốt hơn. Đó là cơ sở để các em học tốt tính giá trị biểu thức trong chương trình học.
Giải pháp 3: Ôn tập, củng cố kiến thức cơ bản có liên quan đến tính giá trị biểu thức.
Để học sinh học tốt được dạng bài tính giá trị biểu thức ở lớp 3, trước hết học sinh phải thực hiện thành thạo các bảng nhân, chia, cộng, trừ đã học. Có kĩ năng thực hiện thành thạo các phép tính về cộng, trừ, nhân, chia từ dễ đến khó theo các vòng số của chương trình sách giáo khoa. Do đó tôi đã tiến hành ôn tập lại cho học sinh các mạch kiến thức trên như sau:
Với các bảng nhân chia từ 2 đến 9.
Ở lớp 2, các em đã được học các bảng cộng, trừ. Ngoài ra các em còn học bảng nhân, chia từ 2 đến 5. Do đó, tôi tổ chức cho các em ôn tập ngay từ đầu năm học, thường xuyên kiểm tra nhắc nhở trong quá trình học toán. Để ôn tập cho học sinh tôi tiến hành dưới các hình thức như: Phát phiếu bài tập cho các em làm với nhiều dạng bài. Tổ chức trò chơi xì điện, trò chơi đố nhau. Tổ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_ren_ki_nang_tinh_g.doc