SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn
Tiểu học là cấp học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục quốc dân. Vì vậy toán không chỉ là một môn khoa học có mặt hầu hết trong các lĩnh vực của đời sống xã hội mà nó còn góp phần quan trọng trong việc phát triển của xã hội. Môn toán góp phần xây dựng một số phẩm chất, ý chí, tình cảm của con người lao động mới như tính cẩn thận, chính xác, kiên nhẫn, vượt khó, tính trung thực, thói quen làm việc có khoa học và ham mê tìm tòi.
Là một giáo viên Tiểu học trực tiếp giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt là lớp 1C tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình toán ở trường Tiểu học. Học sinh được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1, yêu cầu học sinh viết câu lời giải cho phép tính, nêu đề bài toán. Đây quả là một khó khăn đối với học sinh, khi học giải toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn khó đối với các em, và còn tiếp tục phải tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải , phép tính, đáp số, Vì vậy, đây cũng là vấn đề được đồng nghiệp của tôi luôn trao đổi và thảo luận: “Làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng” là một quá trình dày công vun xới “người trồng”.
Toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn là phải lược bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói cách khác là chỉ ra các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và nêu ra câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
TT Mục lục Trang 1 1. PHẦN MỞ ĐẦU 2 2 1.1. Lý do chọn đề tài 2 3 1.2. Mục đích nghiên cứu 3 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu 3 6 2. PHẦN NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 7 2.1. Cơ sở lí luận 3 8 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 4 9 2.3. Những giải pháp thực hiện 5 19 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 13 11 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 14 12 3.1. Kết luận. 14 13 3.2. Kiến nghị 15 14 Tài liệu tham khảo 17 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Tiểu học là cấp học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục quốc dân. Vì vậy toán không chỉ là một môn khoa học có mặt hầu hết trong các lĩnh vực của đời sống xã hội mà nó còn góp phần quan trọng trong việc phát triển của xã hội. Môn toán góp phần xây dựng một số phẩm chất, ý chí, tình cảm của con người lao động mới như tính cẩn thận, chính xác, kiên nhẫn, vượt khó, tính trung thực, thói quen làm việc có khoa học và ham mê tìm tòi. Là một giáo viên Tiểu học trực tiếp giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt là lớp 1C tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình toán ở trường Tiểu học. Học sinh được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1, yêu cầu học sinh viết câu lời giải cho phép tính, nêu đề bài toán. Đây quả là một khó khăn đối với học sinh, khi học giải toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn khó đối với các em, và còn tiếp tục phải tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải , phép tính, đáp số, Vì vậy, đây cũng là vấn đề được đồng nghiệp của tôi luôn trao đổi và thảo luận: “Làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng” là một quá trình dày công vun xới “người trồng”. Toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn là phải lược bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói cách khác là chỉ ra các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và nêu ra câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu cuả chương trình, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với các nhà sư phạm, nhất là việc đặt câu lời giải cho bài toán nhưng chúng ta biết ngay từ lớp một đã yêu cầu viết câu lời giải, quả là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1 thì đến các lớp sau các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt dũa, tô luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt hơn ở các lớp trên. Thực tế qua nhiều năm giảng dạy ở Tiểu học tôi nhận thấy học sinh giải các bài toán có lời văn rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, do đó kết quả chưa cao, nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn dạy trẻ lựa chọn các phép tính và thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số, có lẽ vì thế mà đa số giáo viên muốn dạy học sinh đặt câu lời giải sớm hơn để các em có nhiều thời gian rèn kĩ năng này. Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1 sẽ là một khó khăn đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn, khó khăn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề, Một số em mới đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời được các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì?... Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay. Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh hoàn toàn nguyên nhân chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy. Đây là vấn đề mà tôi luôn trăn trở mỗi khi soạn bài, giảng bài. Chính vì thế, tôi nghiên cứu vấn đề này và đã đúc rút được “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn” Mong tìm ra giải pháp góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 nói riêng và trong môn toán nói chung. Để các em có thể thành thạo hơn với những bài toán khó và phức tạp hơn ở các lớp trên. 1.2. Mục đích nghiên cứu đề tài - Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn. - Đọc hiểu - phân tích - tóm tắt bài toán. - Giải toán đơn về thêm (bớt ) bằng một phép tính cộng ( trừ). - Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số. - Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau 1. 3. Đối tượng nghiên cứu : Dạng toán có lời văn ở lớp 1 1. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra. - Phương pháp trắc nghiệm. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp đàm thoại, gợi mở. - Phương pháp luyện tập. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận. Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. Đó là nguyên nhân chính mà tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn”. Đối với trẻ là học sinh lớp 1, môn toán tuy có dễ nhưng để học sinh đọc-hiểu bài toán có lời văn quả không dễ dàng, vả lại việc viết lên một câu lời giải phù hợp với câu hỏi của bài toán cũng là vấn đề không đơn giản. Bởi vậy nỗi băn khoăn của giáo viên là hoàn toàn chính đáng. Vậy làm thế nào để giáo viên nói - học sinh hiểu , học sinh thực hành - diễn đạt đúng yêu cầu của bài toán. Đó là mục đích chính của đề tài này. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học. đặc biệt dạy lớp 1, tôi nhận thấy hầu như giáo viên nào cũng phàn nàn khi dạy đến phần giải toán có lời văn ở lớp 1. Học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ có khoảng 20% - 25% số học sinh biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em lại rất lúng túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. Giáo viên phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần này. Kết quả điều tra tại lớp 1C Trường Tiểu học Thị trấn Sao Vàng Năm học 2017 - 2018 TG KS Lớp Sĩ số HS viết đúng câu lời giải HS viết đúng phép tính HS viết đúng đáp số HS giải đúng cả 3 bước Lần1 1C 34 SL TL SL TL SL TL SL TL 10 29,4% 17 49,9% 18 52,8% 10 29,4% Từ kết quả khảo sát trên tôi đã tìm được những nguyên nhân sau: - Nguyên nhân từ phía giáo viên: - Giáo viên chưa chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài trước. Những bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, đối với những bài này hầu như học sinh đều làm được nên giáo viên tỏ ra chủ quan, ít nhấn mạnh hoặc không chú ý lắm mà chỉ tập trung vào dạy kĩ năng đặt tính, tính toán của học sinh mà quên mất rằng đó là những bài toán làm bước đệm, bước khởi đầu của dạng toán có lời văn sau này. Đối với giáo viên dạy lớp 1 khi dạy dạng bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, cần cho học sinh quan sát tranh tập nêu bài toán và thường xuyên rèn cho học sinh thói quen nhìn hình vẽ nêu bài toán. Có thể tập cho những em học sinh giỏi tập nêu câu trả lời cứ như vậy trong một khoảng thời gian chuẩn bị như thế thì đến lúc học đến phần bài toán có lời văn học sinh sẽ không ngỡ ngàng và các em sẽ dễ dàng tiếp thu, hiểu và giải đúng. - Nguyên nhân từ phía học sinh Do học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán này lần đầu, tư duy của các em còn mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn này các em chưa đọc thông viết thạo, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán rồi nhưng các em không hiểu bài toán nói gì, thậm chí có những em đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng vẫn chưa hiểu bài toán. Vì vậy học sinh không làm đúng cũng là điều dễ hiểu. Vậy làm thế nào để học sinh nắm được cách giải một cách chắc chắn chính xác. 2.3. Những giải pháp thực hiện Giải pháp 1: Giúp học sinh bước đầu làm quen với giải toán có lời văn Ngay từ đầu năm học các bài toán được giới thiệu ở mức độ nhìn hình vẽ - viết phép tính. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ chọn phép tính thích hợp. Thông thường sau mỗi phép tính ở phần luyện tập có một hình vẽ gồm 5 ô vuông cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. Ban đầu để giúp học sinh dễ thực hiện sách giáo khoa ghi sẵn các số và kết quả : VD: Bài 5 trang 46 a) 1 2 = 3 Chỉ yêu cầu học sinh viết dấu cộng vào ô trống để có : 1 + 2 = 3 b) Đến câu này nâng dần mức độ, học sinh phải viết cả phép tính và kết quả 1 + 1 = 2 Và yêu cầu tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ bài 4 trang 77 diễn đạt theo 2 cách . Cách 1: Có 8 hộp thêm 1 hộp, tất cả là 9 hộp. 8 + 1 = 9 Cách 2: Có 1 hộp đưa vào chỗ 8 hộp , tất cả là 9 hộp. 1 + 8 = 9 Tương tự câu b: Có 7 bạn và 2 bạn đang đi tới. Tất cả là 9 bạn. Cách 1: 7 + 2 = 9 Cách 2: 2 + 7 = 9 Đến bài 3 trang 85 Học sinh quan sát và cần hiểu được: Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả . Còn lại trên cành 8 quả. 10 - 2 = 8 Ở đây giáo viên cần động viên các em diễn đạt trình bày miệng ghi đúng phép tính. Tư duy toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học sinh. Khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh diễn đạt trình bày động viên các em viết được nhiều phép tính để tăng cường khả năng diễn đạt cho học sinh. Giải pháp 2: Hướng dẫn giải toán có lời văn thông qua đề toán bằng lời Đến cuối học kì I học sinh đã được làm quen với tóm tắt bằng lời. Bài 3 trang 87 b, Có : 10 quả bóng Cho : 3 quả bóng Còn :.... quả bóng? 10 - 3 = 7 Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải. Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ hay một tình huống sách giáo khoa. Giải pháp 3: Giúp học sinh tiếp cận với bài toán có lời văn Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp cận với một đề bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện (tiết 81- bài toán có lời văn). Tư duy học sinh từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ, thành chữ viết. Giải toán có lời văn ban đầu được thực hiện bằng phép tính cộng là phù hợp với tư duy của học sinh. Ví dụ: Bài toán 1( Tiết 81): Có .bạn, có thêm bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? Hay ở bài toán 2,3 ( Tiết 81) Bài toán 2: Có con thỏ, có thêm con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ đang chạy tới Giáo viên nêu câu hỏi gợi ý cho học sinh quan sát tranh và trả lời để hoàn thiện các đề toán. Bài toán 1( Tiết 81): Có 1 bạn, có thêm 3 bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? Bài toán 2: Có 5 con thỏ, có thêm 4 con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ? Bài toán 3: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán: Bài toán: Có một gà mẹ và có 7 con gà con. Hỏi ..? Đến bài tập này mức độ không chỉ là quan sát tranh và trả lời xem có một con gà mẹ vào bao nhiêu con gà con nữa mà học sinh phải biết dựa vào cấu trúc một đề toán gồm 2 phần: Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố. Câu hỏi ( thông tin cần tìm ) Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang 116 để nêu được phần còn thiếu của đề toán: Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà? Giải pháp 4: Hướng dẫn giải toán có lời văn Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, sách giáo khoa đã nêu một bài toán, phần tóm tắt đề toán và giải bài toán hoàn chỉnh để học sinh làm quen. ( Bài toán - trang 117) Giáo viên cần cho học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm tắt đề toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải bài toán có lời văn. Bài giải gồm 3 phần: câu lời giải, phép tính và đáp số. Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần tóm tắt cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác. Câu lời giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như nhau, tạo diều kiện cho học sinh diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình. Quy ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực hiện khi trình bày bài giải. Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành thạo giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng. giáo viên chỉ hướng dẫn cách làm tương tự,thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán. Ở lớp 1, học sinh chỉ giải toán về “thêm’’, “bớt” với 1 phép tính cộng hoặc trừ, mọi học sinh bình thường đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng nếu được giáo viên hướng dẫn cụ thể. Giáo viên dạy cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước sau: - Đọc kĩ đề bài: Đề toán cho biết những gì? Đề toán yêu cầu gì? - Tóm tắt đề bài - Tìm được cách giải bài toán - Trình bày bài giải - Kiểm tra lời giải và đáp số Khi giải bài toán có lời văn giáo viên lưu ý cho học sinh hiểu rõ những điều đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ toán học, đó là phép tính thích hợp. Ví dụ, có một số quả cam, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là thêm vào, phải làm tính cộng; nếu đem cho hay đem bán thì phải làm tính trừ, ... Giáo viên hãy cho học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã cho, để các em tập tư duy ngược tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn. Ví dụ, với phép tính 3 + 2 = 5. Có thể có các bài toán sau: - Bạn Hà có 3 chiếc kẹo, chị An cho Hà 2 chiếc nữa. Hỏi bạn Hà có tất cả mấy chiếc kẹo? - Nhà Nam có 3 con gà mẹ Nam mua thêm 2 con gà. Hỏi nhà Nam có tất cả mấy con gà? - Có 3 con vịt bơi dưới ao, có thêm 2 con vịt xuống ao. Hỏi có mấy con vịt dưới ao? - Hôm qua lớp em có 3 bạn được khen. Hôm nay có 2 bạn được khen. Hỏi trong hai ngày lớp em có mấy bạn được khen? Có nhiều đề bài toán học sinh có thể nêu được từ một phép tính. Biết nêu đề bài toán từ một phép tính đã cho, học sinh sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn, chắc chắn hơn, tư duy và ngôn ngữ của học sinh sẽ phát triển hơn. Song trong thực tế giảng dạy học sinh vẫn còn mắc phải những điểm sau: - Học sinh biết giải toán có lời văn nhưng kết quả chưa cao. - Số học sinh viết đúng câu lời giải đạt tỷ lệ thấp. - Lời giải của bài toán chưa sát với câu hỏi của bài toán. * Quá trình nghiên cứu và thực nghiệm: Trong phạm vi 27 tiết dạy từ tiết 81 đến tiết 108 tôi đặc biệt chú ý vào 1 số tiết chính sau đây: Tiết 81 Bài toán có lời văn Có ...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? Học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi Điền vào chỗ chấm số 1 và số 3. - Bài 2 tương tự. Qua tìm hiểu bài toán giúp cho học sinh xác định được bài có lời văn gồm 2 phần: Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố. Câu hỏi ( thông tin cần tìm ) Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang116: Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà? Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học sinh hoàn thành bài toán 4 trang 116: Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim? Tiết 82 Giải toán có lời văn. Giáo viên nêu bài toán . Học sinh đọc bài toán - Đây là bài toán gì? Bài toán có lời văn. -Thông tin cho biết là gì ? Có 5 con gà, mua thêm 4 con gà. - Câu hỏi là gì ? Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà ? Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu, giáo viên đưa ra cách giải bài toán mẫu: Bài giải Nhà An có tất cả là: 5 + 4 = 9 ( con gà ) Đáp số : 9 con gà Bài 1 trang117: Học sinh đọc bài toán - phân tích đề bài - điền vào tóm tắt và giải bài toán . Tóm tắt: An có : 4 quả bóng Bình có : 3 quả bóng Cả hai bạn có :....quả bóng? Bài giải Cả hai bạn có là: 4 + 3 = 7 ( quả bóng ) Đáp số: 7 quả bóng Bài 2 trang 118 Tóm tắt: Có : 6 bạn Thêm : 3 bạn Có tất cả :... bạn? Bài giải Có tất cả là : 6 + 3 = 9( bạn ) Đáp số: 9 bạn Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ 3 của phần tóm tắt + thêm chữ là: VD - Cả hai bạn có là: - Có tất cả là: Tương tự bài 3 trang118 câu lời giải sẽ là: - Có tất cả là: Tiết 84 Luyện tập Bài 1 và bài 2 trang 121 tương tự bài 1,2,3 trang117. Những câu lời giải được mở rộng hơn, hay hơn bằng cách thêm cụm từ chỉ vị trí vào trước cụm từ có tất cả là. Cụ thể là - Bài 1 tr 121 Trong vườn có tất cả là: - Bài 2 tr 121 Trên tường có tất cả là: Tiết 85 Luyện tập Bài 1 trang 122 HS đọc đề toán – phân tích bài toán ( như trên ) Điền số vào tóm tắt Vài ba học sinh nêu câu lời giải khác nhau Giaó viên chốt lại một cách trả lời mẫu: Số quả bóng của An có tất cả là: Tương tự Bài 2 trang122 Số bạn của tổ em có là: Bài 3 trang122 - Số gà có tất cả là: Vậy qua 3 bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viêt câu lời giải khác nhau, song giáo viên chốt lại cách viết lời giải như sau: Thêm chữ Số+ đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là như ở tiết 82 đã làm . Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài( cm) cần thêm chữ dài vào trước chữ là. VD cụ thể Tóm tắt Đoạn thẳng AB : 5cm Đoạn thẳng BC : 3cm Cả hai đoạn thẳng : ... cm? Bài giải Cả hai đoạn thẳng dài là: 5 + 3 = 8 ( cm) Đáp số : 8 cm Tiết 86 Tiết 104 Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung cấp theo phân phối chương trình. Tuy nhiên, việc phân tích đề- tóm tắt- giải bài toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn là các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là: - Có tất cả là: - Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là: - Vị trí ( trong, ngoài, trên, dưới, ...) + có tất cả là: - ... đoạn thẳng....+ dài là: Tiết 105: Giải toán có lời văn (tiếp theo) Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại mấy con gà? HS đọc – phân tích bài toán : +Thông tin cho biết là gì? Có 9 con gà. Bán 3 con gà. +Câu hỏi là gì ? Còn lại mấy con gà? Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tóm tắt- bài giải mẫu. Giáo viên giúp học sinh nhận thấy câu lời giải ở loại toán bớt này cũng như cách viết của loại toán thêm đã nêu ở trên chỉ khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế bằng cụm từ còn lại mà thôi. Cụ thể là: Bài giải Số gà còn lại là: 9 – 3 = 6( con gà) Đáp số: 6 con gà. Bài 1 trang148 Tóm tắt Có : 8 con chim Bay đi : 2 con chim Còn lại:... con chim? Bài giải Số chim còn lại là: 8 - 2 = 6( con chim) Đáp số : 6 con chim. Bài 2 trang 149 Tóm tắt Có : 8 quả bóng Đã thả :3 quả bóng Còn lại:....quả bóng? Bài giải Số bóng còn lại là : 8 - 3 = 5( quả bóng) Đáp số: 5 quả bóng Bài 3 trang 149 Tóm tắt Đàn vịt có : 8 con Ở dưới ao : 5 con Trên bờ: ... con? Bài giải Trên bờ có là: 8 – 5 = 3 ( con vịt ) Đáp số: 3 con vịt . Tiết 106 Luyện tập Bài 1,2 ( Tương tự tiết 105 ) Tiết 107 Luyện tập Bài 1,2 ( tương tự như trên ) Nhưng bài 4 trang 150 và bài 4 trang151 thì lời giải dựa vào dòng thứ 3 của phần tóm tắt bài toán: Số hình tam giác không tô màu là : Số hình tròn không tô màu là: 8 - 4 = 4( hình ) 15 - 4 = 11( hình ) Đáp số: 4 hình tam giác Đáp số: 11 hình tròn. Bài 3 trang 151: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng ? cm 2cm 13cm Bài giải Sợi dây còn lại dài là: 13 – 2 = 11(
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_1_giai_toan_co_loi_v.doc