SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT

SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT

 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI [1] về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng đã xác định rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tô cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học suốt đời”

Giáo dục học sinh không chỉ là trang bị cho các em kiến thức cần thiết mà còn giáo dục các em cả ý thức trong cuộc sống. Ngày nay nạn bạo lực học đường đang là mối quan tâm không riêng của mỗi gia đình, của ngành giáo dục, mà đã trở thành vấn đề cả xã hội đều phải lo lắng trăn trở. Vấn đề ngăn chặn bạo lực học đường được bàn đến trong cả phiên họp của Quốc Hội, các trường học, đã được mọi giới quan tâm. Bất kỳ trường học nào cũng có không ít học sinh cá biệt, áp dụng biện pháp nào để có thể giúp cho những học sinh cá biệt này có thể trở thành học sinh phát triển toàn diện.

Trường THPT Quảng Xương 2 đóng trên địa bàn 8 xã vùng đồng của huyện Quảng Xương, điều kiện kinh tế một số năm trở lại đây phát triển mạnh hơn do đó điều kiện vật chất của học sinh cũng được nâng lên. Tuy nhiên một số học sinh lại đua đòi học những thói hư tật xấu, tham gia vào những trang webstie không lành mạnh . dẫn đến những bạo lực học đường, một số bỏ học tự do.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chon đề tài "Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT"

 

docx 12 trang thuychi01 7192
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
1.PHẦN MỞ ĐẦU
2
1.1. Lý do chọn đề tài
2
1.2 Mục đích nghiên cứu 
2
I.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 
2
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1.1. Thuận lợi – khó khăn
3
2.1.2. Thành công – hạn chế
3
2.1.3. Mặt mạnh – mặt yếu:
3
2.1.4. Nguyên nhân, các yếu tố tác động. 
3
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
3
2.3.1. Mục tiêu của giải pháp.
3
2.3.2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp.
3-9
2.3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp.
9
2.3.4. Mối liên hệ giữa các giải pháp.
9
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
9
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
10
3.1. Kết luận
10
3.2. Kiến nghị
10-11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
12
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI [1] về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng đã xác định rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tô cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học suốt đời”
Giáo dục học sinh không chỉ là trang bị cho các em kiến thức cần thiết mà còn giáo dục các em cả ý thức trong cuộc sống. Ngày nay nạn bạo lực học đường đang là mối quan tâm không riêng của mỗi gia đình, của ngành giáo dục, mà đã trở thành vấn đề cả xã hội đều phải lo lắng trăn trở. Vấn đề ngăn chặn bạo lực học đường được bàn đến trong cả phiên họp của Quốc Hội, các trường học, đã được mọi giới quan tâm. Bất kỳ trường học nào cũng có không ít học sinh cá biệt, áp dụng biện pháp nào để có thể giúp cho những học sinh cá biệt này có thể trở thành học sinh phát  triển toàn diện.
Trường THPT Quảng Xương 2 đóng trên địa bàn 8 xã vùng đồng của huyện Quảng Xương, điều kiện kinh tế một số năm trở lại đây phát triển mạnh hơn do đó điều kiện vật chất của học sinh cũng được nâng lên. Tuy nhiên một số học sinh lại đua đòi học những thói hư tật xấu, tham gia vào những trang webstie không lành mạnh ... dẫn đến những bạo lực học đường, một số bỏ học tự do...
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chon đề tài "Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT"
1.2. Mục đích nghiên cứu.
	Tôi chọn đề tài này với mục đích ngăn chặn bạo lực học đường, xây dựng thế hệ học sinh năng động, thân thiện, phát triển toàn diện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
 Đối tượng học sinh cá biệt ở trường THPT Quảng Xương 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
 Sử dụng các phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; thống kê , xử lí số liệu của học sinh  THPT trong trường THPT Quảng Xương 2. Lấy kết quả thi đua của các tập thể do các giáo viên chủ nhiệm cung cấp để so sánh kết quả năm học 2015-2016 với kết quả năm học 2016-2017 tại trường Trung Học Phổ Thông Quảng Xương 2.
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận: 
Đi từ thực tiễn, tiếp xúc với học sinh hàng ngày. Theo sự phản ánh từ Giáo viên chủ nhiệm, Giáo viên bộ môn về các vấn đề của học sinh. Từ đó nhiều biện pháp được đưa ra và đã thống nhất rất cao trong nhóm để đưa vào áp dụng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi – khó khăn
Do tất cả các em đều xuất thân từ những gia đình nông dân. Mặt khác giáo viên ở đơn vị tôi luôn giữ liên lạc, gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với phụ huynh. Mối quan hệ giữa gia đình và giáo viên rất thân thiện, cởi mở
Trở ngại vì trường đóng trên địa bàn tương đối khó khăn về kinh tế có nhiều gia đình thuộc các xã trường tôi tuyển sinh phải để con ở nhà với ông bà nội hoặc ngoại chăm sóc còn bố ,mẹ hoặc cả bố mẹ phải vào các thành phố lớn để làm việc, an ninh cũng chưa thực sự bảo đảm. Khả năng hiểu biết về xã hội bên ngoài của các em cũng chưa rộng 
2.2.2. Thành công – hạn chế
Đa số các em đều có ý thức trong học tập tốt sau một kỳ học được các Giáo viên chủ nhiệm áp dụng các hình thức giáo dục dựa theo đề tài này. Từ đó kỷ luật nhà trường khép chặt hơn. Các em đã tiến bộ rất nhiều trong rèn luyện đạo đức và trau dồi kiến thức văn hoá và kỹ năng sống.
Bên cạnh đó các em còn mang đậm nét nông thôn, rất bảo thủ, cố chấp, mọi việc các em đều có xu hướng giải quyết bằng “tay chân”.
2.2.3. Mặt mạnh – mặt yếu:
Các em rất thích làm theo phim ảnh, thần tượng tự tìm ra. Có thói quen cho phép mình làm theo ý mình. Như vậy rất cần một nhận thức đúng đắn để hướng các em trở nên hoàn thiện mình. 
Mặt yếu của các em là du nhập cách hành xử khác lạ mà không chọn lọc. Các cách đối nhân xử thế, lối sống không phù hợp với thời đại thể hiện khác xa với khu vực thành phố.
2.2.4. Nguyên nhân, các yếu tố tác động. 
Do các em chưa được trang bị kiến thức toàn diện của một người trưởng thành nên khó chuẩn bị vững chắc cho tương lai của chính mình. Kỹ năng sống còn hạn hẹp.
Như các điểm đã nêu trên, nhưng phải nói đến các yếu tố tạo nên tính cách của các em là do Gia đình, Xã hội và Nhà trường. 
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Mục tiêu của giải pháp.
Làm cho các em hiểu ở độ tuổi của mình thì việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Khi các em cần thì ai sẽ giúp các em cảm nhận về kết quả tốt - xấu của việc mình làm. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa bản thân các em và mọi người xung quanh.
2.3.2. Các giải pháp:
Bước thứ 1 : Tìm hiểu hoàn cảnh
Bất kỳ một học sinh nào, cho dù là học sinh bình thường nhất đều có những hoàn  cảnh sinh sống không giống nhau, không giống với các bạn khác trong lớp học.Kinh nghiệm cho thấy ở lứa tuổi các em học cấp ba, vấn đề tiền bạc không phải là  quan trọng bậc nhất, với các em thì một gia đình hạnh phúc, yên ấm, vui vẻ chính  là điều mà các em cần nhất, do vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải xác định em nào có một gia  đình chưa hoàn toàn hạnh phúc, có xung đột giữa các thành viên trong gia đình...  vì đó có thể là nguyên nhân khiến cho các em trở nên "cá biệt" hoặc cũng  có thể trở thành "tự kỷ"...
Đã có những gia đình trong đó, cha mẹ đều là những người thành đạt nhưng con của họ lại là những học sinh bị gọi là "học sinh cá biệt" do người cha và mẹ đi làm ở xa liên tục, không có thời gian chăm sóc, gần gũi con để con có thể tâm sự, trao đổi, hỏi han tình hình học tập, vui chơi của con. Những học sinh này  thường sống với anh chị hoặc chung sống với ông.Từ đó các em sẽ cảm thấy thiếu đi bàn tay người mẹ, ánh mắt người cha...
Người lớn chỉ biết đáp ứng đầy đủ, thậm chí là dư dả nhu cầu tiền bạc, vật chất  cho con và xem đây là điều kiện tiên quyết cho con học hành. Thực sự thì hành động này đã có thể vô tình đầy con của mình vào con đường lêu lổng, ăn chơi, trở thành học sinh “cá biệt” và khi phát hiện được thì có thể đã muộn.
Cũng có những gia đình, do xung đột giữa các thành viên trong gia đình diễn ra  trước mắt của các em, khiến cho các em trở nên cộc cằn, hoặc xấu hổ với bạn  bè... có những hành vi bắt chước người lớn trong khi giải quyết các xung đột với  các bạn cùng lớp. Như vậy vô tình người lớn đã đẩy các em trở thành học sinh “không ngoan”.
Đã có trường hợp xung đột giữa Ông(bà) với Cha(mẹ) khiến cho các em mất lòng  tin vào đấng sinh thành và trở nên hỗn láo, khó bảo, thường xuyên dùng vũ lực nhằm giải quyết các xung đột với bạn học.
Cũng có trường hợp gia đình của các em quá khó khăn. Các em phải lo phụ giúp gia đình để kiếm sống và thời gian học bài của các em ở nhà bị hạn chế khiến sức học các em bị đuối dần từ đó các em trở thành học sinh “cá biệt”...
	Nếu như giáo viên chủ nhiệm nắm bắt được kịp thời hoàn cảnh sống của học sinh, chắc chắn sẽ có biện pháp kết hợp với gia đình để cùng nhau đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp hơn nhằm đưa học sinh trở lại chính mình
Bước thứ 2 : Tìm hiểu về tâm sinh lý của học sinh
Học sinh cấp ba, lứa tuổi 16 đến 19 này có nhiều biến đổi về tâm, sinh lý [2]. Các em không còn là trẻ nhỏ để được vỗ về chăm sóc nhưng chưa là người lớn để tự mình giải quyết mọi tình huống.
Để khẳng định mình các em dễ có những hành xử bột phát, bất ngờ mà chính các em cũng chưa ý thức một cách đầy đủ hậu quả sẽ đến. Vì vậy một sự định hướng đúng đắn để giúp các em hình thành tính cách của mình sau này là điều hết sức quan trọng khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường.  Không chỉ cần được truyền đạt kiến thức trong học tập, các em cần được trao đổi mọi điều về chính bản thân, về Chân - Thiện - Mỹ trong cuộc sống.
Các em thường có những hành vi bắt chước một cách thụ động với mọi người gần gũi với mình. Trong một ngày thì các em chỉ ở trường học tối đa là 8 giờ, còn lại các em sống trong môi trường gia đình, xã hội xung quanh... Có những em tập tành hút thuốc do thấy người lớn hút thuốc với hình ảnh quá ư là điệu nghệ... 
Có  những em chửi thề, nói tục một cách vô thức, do đã quen nghe và cảm thấy  như vậy là hay, là sành điệu... Có những em quen kiểu cách ăn mặc, trang  điểm cho giống với một người lớn nào đấy, giống với diễn viên nào đấy và xem đây là hợp thời, đúng điệu...
Do ảnh hưởng của truyền hình, phim ảnh,... các em có thể chọn cho mình  một thần tượng và sống theo thần tượng ấy một cách hăm hở, vô thức... Từ đó lấy lối sống, sinh hoạt, trang điểm của thần tượng ấy là điều mà mình phải làm  theo...
Nếu như giáo viên chủ nhiệm cập nhật kịp thời những thông tin này của xã hội thì học sinh sẽ cảm nhận Thầy cô của mình không lạc hậu. Tiếng nói của Thầy cô sẽ có ảnh hưởng hơn đối với các em. Các em sẽ lắng nghe những phân tính của Thầy cô từ đó sẽ có nhiều cơ hội giáo dục, định hướng cho em phát  triển tâm sinh lý phù hợp lứa tuổi.
Bước thứ 3 : Tìm hiểu mối quan hệ bạn bè
Bạn bè, những mối quan hệ trong lớp, ngoài lớp cũng là điều mà Thầy cô chúng ta cần quan tâm. Các em có thể tâm sự hàng giờ với bạn mà không bao giờ hé nửa lời với Thầy cô về một vấn đề nào đó, một số lớn các em học sinh xem bạn bè mình là chuyên gia tư vấn.
Bạn bè xấu, tốt ảnh hưởng nhiều đến nhân cách của các em, người xưa nói "Gần  mực thì đen, gần đèn thì sáng" điều này hoàn toàn không sai... Vấn đề là ai sẽ  đen, ai sẽ sáng thì Thầy cô phải can thiệp một cách tế nhị, đúng lúc, kịp thời...
Nếu như Thầy cô trở thành người bạn của các em thì quả là không gì tốt hơn,  điều này rất khó. Thầy cô có thể tạo môi trường cho các em sinh hoạt chung và từ đó nảy sinh tình bạn tốt giữa các em. Hãy để cho các em phát triển tình bạn một cách tự do trong tầm kiểm soát chừng mực của người lớn. Vấn đề này cần có sự phối hợp của gia đình và nhà trường một cách chủ động.
Bước thứ 4 : Tìm hiểu năng lực học tập
Có những học sinh học giỏi toán, lý, hóa nhưng lại kém văn, sử Có những học sinh rất giỏi ngoại ngữ và các môn xã hội nhưng lại sợ toán, lý...Hãy khơi dậy sự tự hào của các em với nhưng sở trường và khuyến khích các em cố gắng đạt được những tiến bộ so với chính mình ở ngày hôm qua... "hãy  đừng phạm sai lầm ngày hôm qua mình đã gặp" chính là chủ trương mà tất cả học sinh đều phải thấm nhuần. 
Thầy cô, đặc biệt là Thầy cô chủ nhiệm cần phải nắm được học sinh của mình yếu môn nào, khi nào thì bắt đầu sa sút, để từ đó có biện phái thúc đẩy, nhắc nhở kịp thời, không để học sinh có cảm giác bị bỏ rơi, không để cho học sinh vì yếu một môn mà nản lòng rồi kéo theo bỏ học, trở thành “cá biệt.”
Bước thứ 5 : Tìm hiểu sở thích, năng khiếu
Hầu như bất kỳ một học sinh nào đều có một năng khiếu nhất định, năng khiếu  này có thể do  bẩm sinh, do rèn luyện, vấn đề của người Thầy là thấy được năng  khiếu ấy và phát  huy sở trường của các em nhằm lấy nó làm động lực kéo theo  cho học sinh cố gắng hơn ở những mặt còn kém. 
Có những học sinh thích lao động chân tay, khéo tay trong những hoạt động đòi hỏi sự tỉ mỉ, nhưng lại học kém các môn cần sự tư duy. Có những học sinh thích văn nghệ, ca múa hát... có những học sinh thích thể thao, võ nghệ...
Hãy để cho các em có cơ hội thể hiện mình với các bạn và như vậy các em sẽ trở nên nổi tiếng với các bạn. Đó chính là động cơ thúc đẩy các em học tập tốt hơn nhằm không làm xấu đi hình ảnh của mình với các bạn. Như vậy tạo ra những hoạt động ngoại khóa, những buổi sinh hoạt ngoài giờ lên  lớp cũng chính là tạo ra những cơ hội cho các em có thể thể hiện tài năng của mình, lấy lại sự tự tin với các bạn, khẳng định thế mạnh của mình để từ đó các em được nhận sự khuyến khích của mọi người xung quanh, các em sẽ cố gắng nhiều hơn ở các mặt còn yếu kém.
Bước thứ 6: Xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh cá biệt
Sau khi đã thực hiện các bước tìm hiểu như trên, Giáo viên sẽ phân tích và xác  định nguyên nhân làm cho học sinh trở thành cá biệt. Nguyên nhân đó có thể là từ:
- Gia đình có mâu thuẫn, đổ vỡ, xung đột...hoặc gia đình đang gặp khó khăn. 
- Bản thân học kém một vài môn học nào đó, do mất căn bản... 
- Sự lôi kéo của bạn bè vào những hoạt động không thiết thực... 
- Một vài Thầy cô nào đó có những hành động khiến cho các em mất lòng tin... 
Thông thường các nguyên nhân này đi chung với nhau, chứ không đơn thuần riêng lẻ từng nguyên nhân.Thầy cô phải tìm ra đâu là nguyên nhân chủ yếu:
- Có thể chỉ là một phút ham chơi trò chơi điện tử, học sinh ấy đã lỡ xài hết tiền học phí, rồi dẫn đến lo sợ, bỏ học... 
- Có thể do hoàn cảnh khó khăn, các em phải đi làm thêm ban đêm, buổi sáng mệt mỏi, buồn ngủ, không đủ sức theo học trong lớp. 
- Có thể do buồn chuyện gia đình, cảm giác tự ti xuất hiện, các em cảm thấy chán nản, mất phương hướng, tuyệt vọng, ... 
Từ việc xác định được nguyên nhân chủ yếu, tôi tin rằng phần việc còn lại hoàn toàn không khó khăn với một Thầy cô tâm huyết với nghề, có tấm lòng yêu thương các em... nhằm giúp các em có thể khắc phục những khó khăn, thay đổi được những suy nghĩ chưa đúng, để có thể trở thành những học sinh bình thường như bao bạn khác.Thầy cô hãy thông báo kịp thời cho Ban giám hiệu nhà trường tất cả các trường hợp mà Thầy cô cho rằng đấy là những học sinh cá biệt, để cùng nhau có biện pháp phối hợp giữa các bộ phận, bộ môn.Thầy cô không nên tự tin cho rằng chỉ một mình thôi có đủ bản lĩnh cảm hóa, giáo dục các em cá biệt, hậu quả sẽ khôn lường nếu như Thầy cô rơi vào trạng thái bất lực, khi đó sẽ là quá muộn để có thể sự phối hợp giáo dục các em này và lúc này, chính Thầy cô sẽ là người đẩy các em ra xa hơn môi trường giáo dục phổ thông.
Bước thứ 7: Vai trò của Giáo viên chủ nhiệm
	- Yêu cầu về phẩm chất
 Giáo viên chủ nhiệm cần có một nhận thức đúng đắn và sâu sắc về vị trí, yêu cầu đối với  chính  bản thân mình và công việc. Không chỉ trang bị cho mình những kiến  thức cần  thiết cho việc giảng dạy, những vốn sống sâu sắc về con người,  cuộc đời  người Giáo viên chủ nhiệm còn cần phải rèn luyện cho chính mình đạt những  phẩm chất đạo  đức có tính chuẩn mực để trên cơ sở đó, mới có thể nhắc nhở,  uốn nắn học sinh.  Từ hành vi, ngôn ngữ, cách cư xử, cách suy nghĩ, đánh giá  những sự việc trong  cuộc sống, những thói quen trong sinh hoạt tất cả luôn  cần được người Giáo viên chủ nhiệm  tự xem xét, điều chỉnh để có thể không ngừng hoàn  thiện mình trong mắt học  trò. Đơn giản một sự việc là, khó có thể yêu cầu  các em gọn gàng, ngăn nắp,  sống đẹp nếu bản thân người Giáo viên chủ nhiệm chưa là  một “hình mẫu” đối với các em.
Cần nhận thức rõ, giáo dục một con người là một quá trình không có điểm  cuối cùng. Đó là công việc kéo dài cả một đời người chứ không phải là chuyện  của ngày một, ngày hai. Vì thế, người Giáo viên chủ nhiệm không bao giờ được chủ quan,  nóng vội. Một câu nói vô tình, một trách phạt nôn nóng, một hành xử thiếu  cân nhắc đôi khi gây tổn thương và - biết đâu đó - các em sẽ mang theo vết  thương kia thành một ám ảnh khôn nguôi!... Trước mọi sai lầm, vi phạm của  học  sinh, Giáo viên chủ nhiệm cần hết sức bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem xét,  giải  quyết, xử lý vấn đề.
Với một học sinh lười, một học sinh cá biệt chúng ta không nên ảo  tưởng  là các em sẽ tiến bộ ngay sau vài lần nhắc nhở hay xử phạt của Giáo viên chủ nhiệm.  Có khi,  các em vẫn tiếp tục lười, tiếp tục phạm lỗi lầm với mức độ liên tục  hơn, nghiêm  trọng hơn - như một cách thách thức, một cách khẳng định mình  với bạn bè, với  thầy cô, với mọi người. Chính ở những khoảnh khắc này,  người Giáo viên chủ nhiệm cần thể  hiện rõ bản lĩnh và năng lực sư phạm - trong đó - có cả  năng lực "chịu đựng" của mình. Chịu đựng những vi phạm cố tình, những  thách thức nông nổi và  chịu đựng cả những nỗi bực bội, tức giận đang phải  dồn nén trong người. Cần tạo được ở các em, trước hết là sự tôn trọng và  sau đó là một sự gần gũi, cảm  thông.
	- Yêu cầu về kỹ năng
Một trong những kỹ năng quan trọng của người Giáo viên chủ nhiệm là nắm vững tâm lý  học  sinh. Ở hầu hết các lớp học đều có nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Các em  học sinh  cấp ba đang ở lứa tuổi còn nhiều biến đổi tâm sinh lý. 
Đằng sau tất cả mọi kiến thức, kỹ năng cần trang bị và rèn luyện, còn lại là  một yêu cầu tuy không được đặt ra trong các văn bản nhưng nó lại chi phối  tất  cả, đó chính là cái “tâm” của người giáo viên. Không có một tấm lòng, mọi  công  việc sẽ chỉ là hình thức. Và như vậy, yêu thương chăm sóc các em  không chỉ là  mệnh lệnh mà còn là một nhu cầu không thể thiếu của trái tim  người thầy cô  giáo, đặc biệt là người giáo viên chủ nhiệm.
Mặc dù khi nhận trách nhiệm các giáo viên đều nhìn thấy  khó khăn phía trước như những điểm yếu của tập thể, có học sinh “cá biệt” nhưng  với bản lĩnh nghề nghiệp, họ coi đó chỉ là những khó khăn tạm thời.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều Giáo viên chủ nhiệm kêu than bây giờ làm công tác chủ nhiệm lớp  không dễ chút nào, điều đó là có căn cứ. Nếu trước đây học sinh rất thuần, chăm  ngoan, luôn nghe lời thầy cô thì bây giờ có nhiều em ngỗ ngược, luôn muốn  tự khẳng định mình. Tuy nhiên, theo một số Giáo viên chủ nhiệm muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trước hết phải thực sự  thương yêu học sinh, coi các em như người thân của mình. Khi đã có tình yêu  thương thì người thầy sẽ hiểu và biết cách dạy học sinh, ngược lại các em quý mến giáo viên của mình hơn. Chỉ khi tình yêu thương đặt đúng chỗ, học sinh mới cảm nhận  được tình cảm từ trái tim thầy cô. Nói cách khác, giữa thầy và trò luôn có sự  đồng điệu về tâm hồn. Tại sao cùng một học sinh cá biệt nhưng đối với thầy cô này thì  em chống đối còn với thầy cô khác lại phục tùng và nghe lời? Rõ ràng, điều  quan trọng không phải là học sinh đã phạm lỗi ra sao mà nằm ở chỗ các em đã nhìn  thấy lỗi của mình như thế nào? Làm được điều này chính là nhờ sự thu phục nhân tâm của Giáo viên chủ nhiệm. Ngoài cá tính của từng em, phải nói thật rằng có nhiều học sinh  nổi loạn là do thầy. Thầy làm sai, phân biệt đối xử với trò thì lời nói trước lớp khó có trọng lượng. Một số Giáo viên chủ nhiệm giỏi đã đưa ra kinh nghiệm, học sinh bây giờ thích  khuyên bảo nhẹ nhàng hơn là trách phạt.
Giáo viên chủ nhiệm có “quyền lực” trong tay nhưng không phải vì thế mà lúc nào cũng lạm  dụng nó, phải biết khi nào cứng rắn và khi nào mềm dẻo để xử lý các tình  huống. Vì thế, ngoài năng lực chuyên môn Giáo viên chủ nhiệm còn là một nhà tâm lý giỏi,  hiểu thấu đáo những suy nghĩ, tâm tư của học trò. Nhiều lúc Giáo viên chủ nhiệm phải tự đặt  mình vào vị thế của học sinh để hiểu được hành vi và thái độ của các em với cương  vị là người trong cuộc.
Một số Giáo viên chủ nhiệm khác đã tâm sự, làm công tác chủ nhiệm cũng phải có “duyên”. Theo Thầy cô đó, cái “duyên” của Giáo viên chủ nhiệm là biết hòa đồng, thân thiện với học sinh và điều quan trọng  nhất là phải luôn được các em yêu quý, trân trọng. Không chỉ có tình yêu  thương, Giáo viên chủ nhiệm cần xử lý linh hoạt các tình huống xảy ra trên lớp. Cách xử lý  thuyết phục được các em là phải đạt tình và thấu lý với những giải pháp tối  ưu nhất được cả tập thể tán thành và ủng hộ. Như vậy, lúc này Giáo viên chủ 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet_o_truong_thp.docx