SKKN Một số biện pháp để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp Ba
Trong giai đoạn đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, giúp học sinh học tập một cách tích cực, tự giác là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục. Một trong những mục tiêu của việc đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông là: "Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của học sinh". Việc đổi mới này phải được thực hiện tất cả các bậc học, tất cả các môn học.
Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học xác định là môn học công cụ bởi mục tiêu quan trọng của nó. Phân môn Luyện từ và câu lớp Ba có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số tri thức sơ giản về từ, câu, và dấu câu. Học sinh được lĩnh hội kiến thức thông qua một hệ thống bài tập. Như vậy sách giáo khoa tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, Trong đó, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển.
Phân môn Luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập, nó có vị trí quan trọng như các phân môn khác: Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn,. Song ở lớp 3 tiết học dành cho phân môn này rất ít (Chỉ có một tiết /tuần). Vì vậy giáo viên phải biết bổ sung vào một tiết buổi chiều để tăng thời lượng cho phân môn này. Khi dạy luyện từ và câu ở tiểu học chúng ta đều phải hướng tới ba mục tiêu chính đó là: Cung cấp thêm vốn từ cho học sinh, giúp các em có thể sử dụng từ ngữ một cách chính xác, học sinh biết sử dụng từ Tiếng Việt để giao tiếp văn hóa. Ở lớp Ba kiến thức truyền thụ cho học sinh có nhiều phần liên quan tới lớp Hai nên giáo viên phải nắm chắc kiến thức Luyện từ và câu lớp Hai. Các bài tập thường là những bài tập trừu tượng, giáo viên phải hướng dẫn mẫu một phần bài tập, học sinh phải biết tư duy để làm được các phần bài tập còn lại. Trong các môn tự nhiên, Toán được coi là môn học khó thì trong các môn xã hội, phân môn Luyện từ và câu lại được coi là phân môn vừa khô vừa khó. Đây là phân môn cả người dạy và người học cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như khi lĩnh hội. Giáo viên ngại dạy môn học này bởi đây là phân môn có nhiều tình huống sư phạm nhất. Đôi khi tình huống năm ngoài dự đoán của người dạy. Học sinh cũng thấy khi tìm từ và làm các bài tập cũng khó vì lượng kiến thức của môn học rộng. Muốn làm được các bài tập của phân môn này học sinh không chỉ học thuộc những kiến thức trong sách giáo khoa mà còn phải hiểu biết rộng, phải nhớ được kiến thức cũ mà lớp Hai đã học thì mới làm tốt được các bài tập.
Xuất phát từ lí do trên, tôi đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu để đưa ra "Một số biện pháp để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp Ba". Rất mong sự quan tâm góp ý của quý thầy cô.
MỤC LỤC Thứ tự Tên mục Trang 1 Mở đầu 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 1 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2 Nội dung 3 2.1 Cơ sở lý luận 3 2.2 Thực trạng trong giáo dục phân môn Luyện từ và câu lớp 3 3 2.3 Các giải pháp 5 2.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm 11 3 Kết luận, kiến nghị 12 - Kết luận 12 - Kiến nghị 12 - Tài liệu tham khảo 13 - Danh mục các đề tài SKKN đã được công nhận 14 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Trong giai đoạn đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, giúp học sinh học tập một cách tích cực, tự giác là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục. Một trong những mục tiêu của việc đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông là: "Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của học sinh". Việc đổi mới này phải được thực hiện tất cả các bậc học, tất cả các môn học. Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học xác định là môn học công cụ bởi mục tiêu quan trọng của nó. Phân môn Luyện từ và câu lớp Ba có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số tri thức sơ giản về từ, câu, và dấu câu. Học sinh được lĩnh hội kiến thức thông qua một hệ thống bài tập. Như vậy sách giáo khoa tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, Trong đó, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển. Phân môn Luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập, nó có vị trí quan trọng như các phân môn khác: Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn,... Song ở lớp 3 tiết học dành cho phân môn này rất ít (Chỉ có một tiết /tuần). Vì vậy giáo viên phải biết bổ sung vào một tiết buổi chiều để tăng thời lượng cho phân môn này. Khi dạy luyện từ và câu ở tiểu học chúng ta đều phải hướng tới ba mục tiêu chính đó là: Cung cấp thêm vốn từ cho học sinh, giúp các em có thể sử dụng từ ngữ một cách chính xác, học sinh biết sử dụng từ Tiếng Việt để giao tiếp văn hóa. Ở lớp Ba kiến thức truyền thụ cho học sinh có nhiều phần liên quan tới lớp Hai nên giáo viên phải nắm chắc kiến thức Luyện từ và câu lớp Hai. Các bài tập thường là những bài tập trừu tượng, giáo viên phải hướng dẫn mẫu một phần bài tập, học sinh phải biết tư duy để làm được các phần bài tập còn lại. Trong các môn tự nhiên, Toán được coi là môn học khó thì trong các môn xã hội, phân môn Luyện từ và câu lại được coi là phân môn vừa khô vừa khó. Đây là phân môn cả người dạy và người học cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như khi lĩnh hội. Giáo viên ngại dạy môn học này bởi đây là phân môn có nhiều tình huống sư phạm nhất. Đôi khi tình huống năm ngoài dự đoán của người dạy. Học sinh cũng thấy khi tìm từ và làm các bài tập cũng khó vì lượng kiến thức của môn học rộng. Muốn làm được các bài tập của phân môn này học sinh không chỉ học thuộc những kiến thức trong sách giáo khoa mà còn phải hiểu biết rộng, phải nhớ được kiến thức cũ mà lớp Hai đã học thì mới làm tốt được các bài tập. Xuất phát từ lí do trên, tôi đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu để đưa ra "Một số biện pháp để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp Ba". Rất mong sự quan tâm góp ý của quý thầy cô. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Góp phần giúp học sinh lớp Ba học tốt hơn nữa phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt. - Giúp học sinh có hứng thú học tập phân môn Luyện từ và câu, từ đó giúp các em học tốt các phân môn khác như phân môn Tập làm văn, Kể chuyện,... Và biết áp dụng vào thực tế cuộc sống. - Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Nội dung mở rộng vốn từ, luyện tập về từ; biện pháp nghệ thuật so sánh và nhân hóa; mẫu câu Ai-là gì? Ai-làm gì? Ai-thế nào?; cách đặt và trả lời câu hỏi Ở đâu? Bằng gì? Khi nào?; các loại dấu câu trong chương trình Luyện từ và câu lớp Ba; sách giáo khoa, sách giáo viên và các tài liệu có liên quan phục vụ cho việc dạy học. - Học sinh lớp 3A (lớp thực nghiệm) và lớp 3B (lớp đối chứng), Trường Tiểu học Yên Thái, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện SKKN này chủ yếu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết Nghiên cứu các văn kiện, các công văn, văn bản hướng dẫn giảng dạy môn Tiếng Việt, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn + Phương pháp khảo sát điều tra thực tế. + Phương pháp thống kê. + Phương pháp phân tích số liệu. + Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận Nói và viết là điều không xa lạ đối với bất cứ người nào, song nó lại hết sức phức tạp, dùng từ và câu để nói, viết thế nào cho đúng, cho hay là một việc không phải dễ. Chính vì điều này nên Luyện từ và câu được đánh giá là phân môn khó trong môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Khi học Luyện từ và câu người học phải vận dụng tổng hợp rất nhiều kiến thức và kĩ năng đã có ở những lĩnh vực, những phạm vi khác nhau vào thực hiện các nhiệm vụ học tập. Dạy Luyện từ và câu ở lớp Ba, người giáo viên phải thực hiện được các nhiệm vụ như sau: - Mở rộng vốn từ theo các chủ điểm trong Sách giáo khoa. Đây là vốn từ cần thiết và thường dùng mỗi chủ điểm. Dạng bài mở rộng vốn từ với một lượng bài khá lớn. Các bài tập về mở rộng vốn từ vừa giúp học sinh lớp Ba hình thành kiến thức cần thiết về từ qua các chủ điểm, vừa rèn kĩ năng giao tiếp một cách sinh động. Một trong những nội dung quan trọng của việc rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là giúp học sinh biết sử dụng từ một cách phù hợp trong các bài viết, đặc biệt trong Tập làm văn. Dùng từ đúng, phù hợp với nội dung văn cảnh, giúp các em thể hiện ý văn sáng sủa, rõ ràng, mặt khác giúp người đọc hiểu nội dung bài văn, câu văn một cách dễ dàng, chính xác. - Ôn luyện để nắm chắc hơn một số kiến thức và kĩ năng đã học ở lớp 2: + Về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, từ chỉ đặc điểm, + Về cái loại câu Ai (con gì, cái gì) là gì?, làm gì?, thế nào? + Về một số thành phần trong câu (trả lời câu hỏi Khi nào? ở đâu? Như thế nào? Vì sao? Để làm gì? Bằng gì?) + Về các các dấu câu như dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi... - Hình thành kiến thức sơ giản về biện pháp so sánh và biện pháp nhân hóa, về các dấu hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, đồng thời luyện tập để bước đầu có các kĩ năng về: + Phân tích và cảm nhận được tác dụng, hiệu quả của các biện pháp so sánh, nhân hóa. + Bước đầu biết dùng các biện pháp so sánh và nhân hóa. + Biết dùng các dấu câu như dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm. - Bồi dưỡng tình cảm quý trọng Tiếng Việt, thói quen dùng từ và câu đúng, có ý thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp đạt được phẩm chất văn hóa. 2.2. Thực trạng trong giảng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 3 a. Thuận lợi + Đối với giáo viên - Giáo viên tận tụy, luôn tìm tòi những phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh để giảng dạy. - Giáo viên có kế hoạch rèn cho học sinh có thói quen dùng từ, đặt câu trong học tập cũng như trong giao tiếp ngay từ đầu năm học. - Học sinh trong lớp không nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra (chấm bài viết thường xuyên, phát hiện lỗi sai kịp thời để học sinh sửa chữa và khắc phục khi sử dụng vốn từ trong hoạt động nói và viết. + Đối với học sinh - Học sinh nằm trên địa bàn gần trường, phần lớn các em có ý thức học tập tốt. Học sinh đều chăm ngoan. - Học sinh có đủ sách giáo khoa và vở bài tập Tiếng Việt ghi đầy đủ nội dung bài tập Luyện từ và câu. - Các em đã được làm quen với phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 và có nhiều kiến thức liên quan ở lớp 2 nên các em học tập có phần tự tin hơn. b. Khó khăn + Đối với giáo viên - Hình thức để dạy một tiết Luyện từ và câu còn đơn điệu, thiếu sáng tạo, chưa thực sự sinh động cuốn hút học sinh. - Trình độ của giáo viên chưa đồng đều, lượng kiến thức của phân môn trong một tiết dạy còn nhiều bài tập. Khiến người dạy đôi lúc không muốn sử dụng nhiều phương pháp như vấn đáp, gợi mở... Vì mất nhiều thời gian, giáo viên phải nói nhiều, làm việc nhiều dẫn đến hoạt động của cô, trò đôi lúc chưa nhịp nhàng. Học sinh chưa phát huy hết tính tích cực trong học tập. - Thời lượng dành cho phân môn Luyện từ và câu còn ít, một tiết / tuần - Đồ dùng dạy học hiện đại còn rất hạn chế. Cơ sở vật chất chưa được tốt. + Đối với học sinh - Tình hình thực tế học sinh lớp Ba ở đây vốn từ các em còn hạn chế. Các em chỉ hiểu nghĩa của từ ở mức độ đơn giản trong khi từ ngữ Tiếng Việt vô cùng phong phú. Khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập còn chậm. - Các từ cần giải nghĩa đa số là từ Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải nghĩa. - Các từ, các thành ngữ, tục ngữ cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống nhau, khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng. - Ranh giới giữa các từ hoặc từ trong Tiếng Việt không mang tính xác định, không dễ nhận biết nên các em còn thiếu tự tin khi học phân môn này. - Đa số gia đình các em sống về nghề nông còn nghèo, cha mẹ còn lo đi làm thuê để kiếm sống, chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em. c. Thực trạng của giáo viên khi dạy phân môn luyện từ và câu ở lớp 3 - Giáo viên chưa nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp dạy học đặc trưng của phân môn. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên chưa tạo ra được các tình huống để gây hứng thú học tập cho học sinh. - Chưa tạo cho học sinh có thói quen sử dụng từ điển Tiếng Việt. - Trong quá trình giảng dạy sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học chưa linh hoạt. - Trong quá trình học tập chưa tạo được bầu không khí học mà chơi, chơi mà học để học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Để xác định được kế hoạch thực hiện nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát tình hình thực tế việc dùng từ, đặt câu của học sinh ngay từ đầu năm học, tôi thống kê học sinh còn mắc lỗi dùng từ, đặt câu còn rất nhiều, có một số học sinh dùng từ chưa chính xác, chưa hiểu nghĩa từ, đặt câu chưa đúng ngữ pháp, chưa dùng từ có hình ảnh so sánh (đã học ở lớp Hai). Kết quả khảo sát như sau: Chất lượng khảo sát đầu năm Lớp Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL TL SL TL SL TL 3A(Lớp thực nghiệm) 30 2 6,6 18 60,1 10 33,3 3B (Lớp đối chứng) 29 2 6,9 19 65,5 8 27,6 d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động - Đối với học sinh tiểu học, các em ở lứa tuổi chưa có được vốn từ ngữ dồi dào trong khi đó các bài tập trong sách giáo khoa lại khá phong phú, đa dạng nên so với đối tượng học sinh là khó. Mặt khác giáo viên cũng có nhiều khó khăn trong việc giúp học sinh nắm vững được các kiến thức cơ bản của từng bài để từ đó các em có thể phát triển theo hướng làm thêm được các bài tập nâng cao. - Học sinh chưa có hứng thú học tập phân môn này. Đa số các em đều cho rằng Luyện từ và câu là môn học khó. Một số kiến thức còn trừu tượng, khó hiểu, không gần gũi với học sinh. Phần lý thuyết cũng không có học sinh chỉ được hiểu qua những bài tập làm mẫu của giáo viên rồi cảm nhận và làm các bài tập còn lại, vì thế học sinh thường ngại học phân môn này. 2.3. Các biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Giáo viên nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy đặc trưng bộ môn - Từ việc phân loại đối tượng trên, tôi đề ra cho mình phương pháp dạy thật tốt phân môn Luyện từ và câu. Tôi đã nghiên cứu ở sách giáo khoa, sách tham khảo để nắm vững chương trình và phương pháp đặc trưng của phân môn này. Có nắm vững nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy, người giáo viên mới đi sâu nghiên cứu, giảng dạy tốt phân môn Luyện từ và câu. a. Nội dung chương trình phân môn luyện từ và câu Trong chương trình Tiểu học mới, môn Tiếng Việt đặt mục tiêu rèn kĩ năng lên hàng đầu, các bài học không có tiết học lí thuyết riêng. Phân môn Luyện từ và câu được biên soạn theo quan điểm giao tiếp, tích hợp, tích cực hóa hoạt động của người học. Mặt khác, học sinh lớp Ba phải hoàn thành tốt kiến thức đã học ở lớp Hai về từ loại, các kiểu câu, các thành phần câu và dấu câu. Học sinh lớp Ba tiếp tục được trang bị những hiểu biết ban đầu về biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa để phục vụ việc đọc hiểu các loại văn bản và làm văn. Như vậy, việc dạy học Luyện từ và câu để đạt được mục tiêu trên cần cho các em tiếp xúc với các loại bài tập cụ thể, qua đó các em được rèn luyện những kĩ năng cần thiết và bước đầu tiếp xúc với ngôn ngữ hình tượng văn học, rung động trước cái hay, cái đẹp của cuộc sống, của con người, của thiên nhiên. Từ đó, hình thành và phát triển nhận thức, tình cảm, thái độ đúng đắn trước cuộc sống. Chương trình Luyện từ và câu ở lớp Ba có những loại bài tập sau: * Mở rộng vốn từ - Gắn với các chủ điểm được học: Măng non, Mái ấm, Tới trường, Cộng đồng, Bảo vệ Tổ quốc, Sáng tạo, Nghệ thuật, Lễ hội, Thể thao, Ngôi nhà chung, Bầu trời và mặt đất. - Thông qua các bài tập: + Tìm từ ngữ theo chủ điểm + Tìm hiểu, giải nghĩa từ + Hệ thống, phân loại vốn từ + Luyện cách sử dụng từ * Ôn luyện kiến thức đã học ở lớp Hai - Ôn vè các từ chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm (chủ yếu thông qua các bài tập có yêu cầu nhận diện). - Ôn về các kiểu câu đã học ở lớp Hai: Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? Các thành phần trong câu đá ứng các câu hỏi Ai / là gì? Làm gì? Thế nào? ở đâu? Bao giờ? Vì sao? Để làm gì? Thông qua các bài tập: + Trả lời câu hỏi + Tìm bộ phận câu trả lời câu hỏi + Đặt câu hỏi cho từng bộ phận câu + Đặt câu theo mẫu, ghép các bộ phận thành câu,. - Ôn về một số dấu câu cơ bản: dấu chấm, dấu phẩy, dấu hai chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than thông qua các bài tập: + Chọn dấu câu đã cho điền vào chỗ trống + Tìm dấu câu thích hợp điền vào chỗ trống + Điền dấu câu đã cho vào chỗ thích hợp + Tập ngắt câu * Bước đầu làm quen với các biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa - Về biện pháp so sánh, sách giáo khoa có nhiều loại bài tập như: + Nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, những hình ảnh so sánh, các vế so sánh, các từ so sánh, đặc điểm so sánh, + Tập nhận biết tác dụng của so sánh + Tập đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh. - Về biện pháp nhân hóa, sách giáo khoa có những bài tập như: + Nhận diện về nhân hóa: Cái gì được nhân hóa? nhân hóa bằng cách nào? + Tập nhận biết cái hay của nhân hóa + Tập viết câu hay đoạn văn có dùng biện pháp nhân hóa b. Các phương pháp dạy học chủ yếu Phân môn Luyện từ và câu rèn cho học sinh dùng từ đúng, nói viết thành câu. Ở lớp Ba học sinhkhoong phải học những kiến thức lí thuyết về Tiếng Việt. Trong sách giáo khoa, các kiến thức sơ giản về từ và câu được thực hiên qua các bài tập thực hành, luyện tập về dùng từ đặt câu, qua việc rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ, ngữ pháp dần dần hình thành ở học sinh một cách tự nhiên các nhận thức ban đầu về các đơn vị kiến thức, về từ ngữ, ngữ pháp sẽ học ở lớp trên. Cũng như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, khi dạy học Luyện từ và câu các phương pháp thường được sử dụng rộng rãi là: - Phương pháp luyện tập theo mẫu, đấy là phương pháp được sử dụng nhiều nhất khi dạy Luyện từ và câu lớp Ba. Thông qua việc hướng dẫn học sinh làm mẫu một phần của bài tập, giáo viên giúp các em nhận biết cách làm bài tập để tự mình hoàn thành bài tập. - Phương pháp phân tích ngôn ngữ thường được sử dụng khi hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ hoặc mở rộng vốn từ theo cấu tạo. - Phương pháp giao tiếp: Thông qua việc dạy từ dựa vào lời nói, vào những thông báo sinh động, vào giao tiếp ngôn ngữ, giáo viên hướng dẫn học sinh vào những tình huống để tạo ra sản phẩm giao tiếp (là việc hiểu và dùng từ đúng, hay của học sinh). - Phương pháp thảo luận nhóm, trò chơi học tập,... Dạy Luyện từ và câu lớp Ba thực chất là việc tạo cho học sinh thực hiện các bài tập. Do vậy, khi dạy Luyện từ và câu , để học sinh hứng thú bọc tập, tôi thường vân dụng các phương pháp phù hợp với từng loại bài: * Tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập mổ rộng vốn từ và hệ thống hóa vốn từ. Từ tồn tại trong đầu óc con người được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định. Nhờ quy luật này, từ mới có thể sử dụng được trong lời nói. Vì khi sử dụng từ, nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh sẽ nhanh chóng huy động, lựa chọn được từ ngữ phù hợp với yêu cầu giao tiếp. Toàn bộ bài tập mở rộng, hệ thống hóa vốn từ yêu cầu học sinh tìm những từ theo một dấu hiệu chung nào đó. Ở Tiểu học biện pháp được dử dụng phổ biến nhất để hệ thống hóa vốn từ là mở rộng vốn từ theo chủ điểm. Các chủ điểm này có phạm vi rộng hẹp rất khác nhau, vì thế các bài tập rất đa dạng, phong phú. Nhóm từ theo chủ điểm bao gồm các từ thuộc những từ loại khác nhau. Để giải các bài tập này, tôi gợi ý cho học tìm trong vốn từ của mình những từ có mang những nét nghĩa phù hợp với chủ điểm. Cũng có thể liên tưởng theo các lớp từ vựng: đồng nghĩa, trái nghĩa. Cuối cùng là tìm các từ có cùng cấu tạo. Giải các bài tập mở rộng hệ thống hóa vốn từ, học sinh sẽ được xây dựng được những nhóm từ khác nhau. Để hướng dẫn học sinh làm những bài tập này, giáo viên cần có vốn từ cần thiết và biết phân loại vốn từ. * Tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập giải nghĩa từ Tầm quan trọng của việc dạy nghĩa của từ cho học sinh đã được thừa nhận từ lâu trong phương pháp dạy học Tiếng Việt. Nó là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc giải nghĩa từ được tiến hành trong các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm thì ở đó có giải nghĩa từ. Để dạy nghĩa của từ trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa của từ và phải biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh. Ở Tiểu học, tôi thường sử dụng một số phương pháp giải nghĩa sau: + Giải nghĩa bằng trực quan là phương pháp đưa ra các vật chất, tranh ảnh, sơ đồ,... Để giải nghĩa từ. Trực quan chiếm vị trí quan trọng trong giải nghĩa từ ở tiểu học vì nó giúp học sinh hiểu nghĩa từ một cách dễ dàng, nhưng cách giải nghĩa này đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị khá công phu và không thể dùng để giải thích những từ trừu tượng. Biện pháp này nên dùng ở các lớp đầu cấp. Ví dụ: Bài tập yêu cầu học sinh "nhìn vào tranh vẽ xem đâu là đỉnh núi, chân núi, sườn núi?". + Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ, một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ. Tôi không cần giải thích nghĩa của từ được bộc lộ nhờ ngữ cảnh. Ví dụ: Để giải nghĩa từ "rực rỡ", tôi đưa ra câu "Những đóa hồng rực rỡ đang đón chào nắng sớm.". + Giải nghĩa từ bằng đối chiếu, so sánh với từ khác. Ví dụ: Giải nghĩa từ "đồi" bằng cách so sánh "đồi" với "núi". Đồi thấp hơn núi, có sườn thoải. Cách giải nghĩa này được xây dựng thành bài tập kiểu "Đồi khác núi như thế nào?". + Giải nghĩa bằng định nghĩa là phương pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung nghĩa bằng một định nghĩa. Ví dụ: "Cộng đồng là những người sống trong một tập thể hoặc một khu vực, gắn bó với nhau". Đây là phương pháp giải nghĩa phổ biến nhất, là biện pháp giải nghĩa làm cơ sở cho rất nhiều bài tập dạy nghĩa khác nhau. Hình thức giải nghĩa này có ba dạng bài tập từ dễ đến khó: *Mức thứ nhất: Đó là kiểu bài tập yêu cầu nối từ với nghĩa tương ứng. Khi hướng dẫn giải bài tập này, giáo viên phải làm cho học sinh hiểu nghĩa của từng yêu tố để thấy sự tương ứng của từng cặp. *Mức thứ hai: Cho sẵn nội dung (nét nghĩa của từ) yêu cầu tìm tên gọi. Ví dụ: Điền tiếp vào chỗ trống trong câu "Người làm nghề cày ruộng, trồng trọt trên động ruộng là...". Học sinh phải trả lời được câu hỏi: Người làm nghề cày ruộng, trồng trọt là ai? Để ghi vào chỗ trống từ "nông dân" cho đúng. *Mức độ cao: Cho sẵn từ yêu cầu học sinh xác lập nội dung tương ứng. Phổ biến nhất là kiểu bài tập đưa ra các câu hỏi trực tiếp "Theo em, thám hiểm là gì?". Để thực hiện loại bài tập này, học sinh phải có kĩ năng định nghĩa. * Vận dụng phương pháp dạy thực hành giao tiếp để tổ chức dạy học Để đảm bảo thành công cho các hoạt động thực hành, giáo viên phải dành thời gian chuẩn bị các nội dung thực hành sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, phải kiểm tra được các hoạt động thực hành của học sinh để tránh học sinh sai từ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_de_day_tot_phan_mon_luyen_tu_va_cau_lo.doc