Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Tiếng Anh ở Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Tiếng Anh ở Lớp 3

Để xác định tuổi trí tuệ (MA), các nhà giáo dục và tâm lý học đã dùng tới các bài trắc nghiệm để đo lường khả năng trí tuệ của các em học sinh. Các câu hỏi được xếp đặt từ dễ đến khó và liên quan tới trí nhớ, cách lý luận, các định nghĩa, khả năng tính các con số và khả năng nhớ lại các dữ kiện. Theo cách tính theo IQ, điểm trung bình là 100 theo các bậc, ví dụ từ 132 trở lên là cực kỳ thông minh, 121-131 rất thông minh, 89-110 thông minh trung bình, 79-88 kém thông minh, dưới 67 là đần độn.

Nhưng bản thân những bài trắc nghiệm đo trí thông minh khó đánh giá một cách công bằng các khả năng của mọi người. Ví dụ: Nếu bài trắc nghiệm bằng tiếng Anh, khiến những người bản xứ sẽ thuận lợi hơn. Một người đi du lịch nhiều sẽ có điểm trắc nghiệm cao hơn người khác trong lĩnh vực này.

Các bài trắc nghiệm về trí thông minh chỉ giới hạn phạm vi đo lường vào các khả năng lý luận toán học và ngôn ngữ, mà hầu như đã bỏ quên những năng khiếu khác như sự khéo tay, năng khiếu thể thao, khả năng giao tiếp, âm nhạc và nghệ thuật. Mặt khác, IQ test đã không xét tới các tài năng và khuynh hướng thường không được xếp hạng như tài thuyết phục, tài thương lượng.

Năm 1988, thuyết Đa trí tuệ (trí thông minh đa dạng) được Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner của đại học Harvard giới thiệu lần đầu trong quyển “Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences”. Ông phản bác quan niệm truyền thống về khái niệm thông minh, vốn được đồng nhất và đánh giá dựa theo các bài trắc nghiệm IQ. Ông cho rằng khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ khả năng tri thức đa dạng của con người.

Ông đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều tồn tại một vài kiểu thông minh trong số 8 loại: ngôn ngữ, lôgic/toán học, âm nhạc, không gian, vận động cơ thể, giao tiếp (tương tác cá nhân), nội tâm (hướng nội), thiên nhiên (tự nhiên học). Tuy nhiên, ứng với mỗi cá nhân sẽ có những loại trí thông minh vượt trội hơn các trí thông minh còn lại.

 

doc 26 trang hoathepmc36 28/02/2022 8415
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Tiếng Anh ở Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
Nội dung đề mục
Trang
1
MỤC LỤC
1
2
I. PHẦN MỞ ĐẦU
2
3
1. Lý do chọn đề tài
2
4
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3
5
3. Đối tượng nghiên cứu
3
6
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4
7
5. Phương pháp nghiên cứu
4
8
II. PHẦN NỘI DUNG
4
9
1. Cơ sở lí luận
4
10
2. Thực trạng
6
11
3. Giải pháp, biện pháp
7
12
4. Kết quả
19
13
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
21
14
1. Kết luận
22
15
2. Kiến nghị
23
16
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
24,25
17
Tài liệu tham khảo
26
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Trong những năm gần đây, việc học ngoại ngữ nói chung và môn Tiếng Anh nói riêng ở các trường tiểu học đã được chú trọng hơn rất nhiều. Khi tiếng Anh đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của nó trong các trường học và các cấp học, thì việc nâng cao chất lượng dạy và học là rất quan trọng. Vậy làm thế nào để nâng cao được hiệu quả của việc dạy và học là một nhu cầu thiết yếu không chỉ đối với người học mà đặc biệt là đối với người đang trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Anh. 
	Nhưng không phải học sinh nào cũng phù hợp với một cách dạy như nhau vì theo thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt và mỗi em mang trong mình một số trí thông minh khác nhau. 
	Thuyết đa trí tuệ là một thuyết mang tính nhân văn, nó không đánh đồng hay ép buộc học sinh phải theo một chuẩn nhất định mà xem xét sự thông minh của các em theo nhiều hướng khác nhau, giúp các học sinh thêm tự tin vào bản thân bởi nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tự ti mặc cảm và không dám phát huy khả năng của mình là các em đã bị người thân hoặc thầy cô vô tình dán nhãn tiêu cực là yếu kém khi học tập chưa đạt điểm cao.
	Thấy được tính nhân văn và khả năng ứng dụng cao của thuyết đa trí tuệ vào giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Anh là lý do tôi chọn đề tài “Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Tiếng Anh ở lớp 3”
để làm báo cáo, cùng đồng nghiệp nghiên cứu, thảo luận để góp phần nâng cao hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng đào tạo của môn học.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.	
a. Mục tiêu
	- Hiểu hơn về học sinh để có những phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực học sinh theo yêu cầu mới, phù hợp với sự thay đổi của xã hội.
	- Nâng cao chất lượng học tập của bộ môn, giúp học sinh học tiếng Anh có hiệu quả, nắm vững kiến thức và xa hơn là thể sử dụng trong giao tiếp.
 Nói tóm lại, SKKN hướng đến mục đích cuối cùng là cải tiến cách hiểu học sinh từ đó cải tiến phương pháp dạy học, cách đánh giá học sinh, tạo thêm hứng thú cho học sinh, giúp học sinh tự tin tích cực, chủ động tiếp nhận tri thức và hình thành kỹ năng, phát triển nhân cách, phát triển năng lực giao tiếp và bồi dưỡng các phẩm chất và năng lực chung khác bằng chính cách của mình dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
b. Nhiệm vụ
Để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu, người thực hiện đề tài này cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
	1. Nghiên cứu các tài liệu về thuyết đa trí tuệ.
	2. Nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn Tiếng Anh, các kỹ thuật dạy Tiếng Anh
	3. Nghiên cứu các cách đánh giá học sinh.
	4. Quan sát và nghiên cứu về tâm lí học sinh
 5. Kiểm tra, đánh giá kết quả việc nắm bài của học sinh để từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý.
3. Đối tượng nghiên cứu.
 - Thuyết đa trí tuệ
	- Các kĩ thuật dạy học tích cực.
	- Các phương pháp dạy học tích cực.
- Các cách đánh giá học sinh
	- Khách thể trợ giúp nghiên cứu: Các đồng nghiệp cùng chuyên môn trong và ngoài trường, cùng trao đổi, dự giờ, học hỏi kinh nghiệm.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: học sinh khối 3 trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm học 2017- 2018 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
 - Nghiên cứu tài liệu, sách vở; 
 - Phương pháp thực nghiệm sư phạm;
 - Phương pháp trực quan;
 - Phương pháp trò chơi học tập.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
 	Vào đầu thế kỷ XX, nhà tâm lý học Alfred Binet đã phát triển một phương pháp cho phép đo lường trí thông minh của các em học sinh rồi xếp loại chúng thành 3 hạng: chậm hiểu, trung bình và sáng trí. Ông cho rằng khả năng giải đáp các bài toán của một em học sinh chính là dấu hiệu cho biết về trí thông minh và khả năng đó sẽ gia tăng theo tuổi trưởng thành. Vì thế, Binet đã làm ra một thứ thước đo trí thông minh.
Năm 1905, Alfred Binet và Théodore Simon đã phổ biến một thang đo trí thông minh cho các em tuổi từ 3 - 13.Các điểm số được tính trong thang điểm Binet và trong các bài trắc nghiệm tương tự đều dùng tới tuổi trí tuệ (MA - Mental Age). Một em nhỏ có tuổi trí tuệ là 7 nếu em có thể giải được các bài toán mà phần lớn các em nhỏ 7 tuổi đều giải được. Mặc dù tuổi đời của em đó có thể là 5 hay 9 tuổi.
Năm 1914, nhà tâm lý học người Đức William Stern cho biết rằng, do so sánh tuổi trí tuệ (MA) với tuổi thực, người ta biết được sự phát triển của trẻ em. Stern cho rằng dùng tuổi trí tuệ (MA) chia cho tuổi thực là cách để đo lường tốc độ học tập (để tránh các số lẻ, người ta nhân kết quả với 100). ông William Stern đã gọi đó là “chỉ số tuổi trí tuệ”.
Năm 1916, nhà tâm lý học người Mỹ thuộc Trường đại học Stanford là ông Lewis Terman (1877-1956) đã sửa đổi các bài trắc nghiệm của Alfred Binet thành bài trắc nghiệm Stanford-Binet và đưa ra ý niệm về “chỉ số thông minh” IQ.
Năm 1949, nhà tâm lý học David Wechsler cho phổ biến “thước đo thông minh Wechsler” dùng cho các thiếu niên từ 5 tới 15 tuổi, thước đo trí thông minh dùng cho người trưởng thành (năm 1955) dùng để trắc nghiệm mọi người từ 16 - 64 tuổi, phần tiêu chuẩn đặc biệt dùng cho người cao tuổi từ 60 - 75 tuổi.
Để xác định tuổi trí tuệ (MA), các nhà giáo dục và tâm lý học đã dùng tới các bài trắc nghiệm để đo lường khả năng trí tuệ của các em học sinh. Các câu hỏi được xếp đặt từ dễ đến khó và liên quan tới trí nhớ, cách lý luận, các định nghĩa, khả năng tính các con số và khả năng nhớ lại các dữ kiện. Theo cách tính theo IQ, điểm trung bình là 100 theo các bậc, ví dụ từ 132 trở lên là cực kỳ thông minh, 121-131 rất thông minh, 89-110 thông minh trung bình, 79-88 kém thông minh, dưới 67 là đần độn.
Nhưng bản thân những bài trắc nghiệm đo trí thông minh khó đánh giá một cách công bằng các khả năng của mọi người. Ví dụ: Nếu bài trắc nghiệm bằng tiếng Anh, khiến những người bản xứ sẽ thuận lợi hơn. Một người đi du lịch nhiều sẽ có điểm trắc nghiệm cao hơn người khác trong lĩnh vực này.
Các bài trắc nghiệm về trí thông minh chỉ giới hạn phạm vi đo lường vào các khả năng lý luận toán học và ngôn ngữ, mà hầu như đã bỏ quên những năng khiếu khác như sự khéo tay, năng khiếu thể thao, khả năng giao tiếp, âm nhạc và nghệ thuật... Mặt khác, IQ test đã không xét tới các tài năng và khuynh hướng thường không được xếp hạng như tài thuyết phục, tài thương lượng...
Năm 1988, thuyết Đa trí tuệ (trí thông minh đa dạng) được Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner của đại học Harvard giới thiệu lần đầu trong quyển “Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences”. Ông phản bác quan niệm truyền thống về khái niệm thông minh, vốn được đồng nhất và đánh giá dựa theo các bài trắc nghiệm IQ. Ông cho rằng khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ khả năng tri thức đa dạng của con người.
Ông đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều tồn tại một vài kiểu thông minh trong số 8 loại: ngôn ngữ, lôgic/toán học, âm nhạc, không gian, vận động cơ thể, giao tiếp (tương tác cá nhân), nội tâm (hướng nội), thiên nhiên (tự nhiên học). Tuy nhiên, ứng với mỗi cá nhân sẽ có những loại trí thông minh vượt trội hơn các trí thông minh còn lại.
2. Thực trạng
 * Thuận lợi
- Môn Tiếng Anh là môn mới được áp dụng đối với học sinh tiểu học trong những năm gần đây. Vì vậy một số học sinh cảm thấy có hứng thú, hoặc yêu thích với môn học còn mới mẻ này, nên mỗi khi lên lớp đa số học sinh rất tích cực.
- Được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường; sự quan tâm của cha mẹ học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Trường có tương đối đầy đủ về thiết bị, đồ dùng dạy học như : băng đài, đĩa, máy chiếu phục vụ cho việc dạy và học. Có cơ sở vật chất và xây dựng phòng học, đóng bàn ghế theo chuẩn.
- Có nhiều cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học hành của con em. Học sinh ngoan, ham mê học Tiếng Anh.
- Có được sự hợp tác tốt giữa giáo viên và học sinh.
 - Qua quá trình học tập, tìm hiểu qua sách báo, tài liệu cũng như quá trình giảng dạy đã giúp cho tôi có những kinh nghiệm thiết thực trong khi thực hiện.
 * Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì vẫn còn một số khó khăn còn gặp phải:
 + Hầu hết học sinh ở đây đều là con em thuần nông, con em dân tộc thiểu số nên điều kiện đầu tư cho các em còn hạn chế, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần học tập của các em;
 + Trường chưa có phòng học chức năng riêng biệt với đầy đủ trang thiết bị;
 + Do điều kiện và hoàn cảnh, phụ huynh chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh, nên chưa quan tâm, đốc thúc các em học môn học này, dẫn đến một số em không có điều kiện mua sách vở đầy đủ. 
+ Do điều kiện phát triển về mọi mặt còn hạn chế, điều kiện để các em học sinh tiểu học được tiếp xúc với các thông tin đại chúng, các chương trình giải trí sử dụng Tiếng Anh còn ít. Dẫn đến khả năng giao tiếp của các em còn hạn chế, huống hồ là giao tiếp bằng Tiếng Anh.
 + Bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công.
 + Hơn nữa các em cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn để tự học ở nhà. Bởi vì là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. 
3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Thuyết Đa trí tuệ cho rằng, mỗi cá nhân hầu như đều đạt đến một mức độ nào đó ở từng “phạm trù thông minh” khác nhau. Đặc biệt, mức độ này không phải là “hằng số” trong suốt cuộc đời của mỗi người mà có thể sẽ thay đổi (tăng hay giảm) tùy vào sự trau dồi của mỗi cá nhân.
Theo Howard Gardner, trí thông minh đa dạng cho thấy mỗi con người có khả năng biểu đạt tri thức của mình theo 8 cách khác nhau và học theo cách tốt nhất như thế nào.
Khi áp dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học, lực học của HS sẽ được nhìn nhận dưới góc độ tích cực hơn và nhân văn hơn, định nghĩa về “giỏi” trong học tập sẽ mang tính tổng quát hơn so với hiện nay. Điều này giúp HS tự tin vào bản thân và có thể khám phá và mở rộng năng lực cá nhân của mình từ đó khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập theo các hướng khác để HS thành công và tỏa sáng hơn trong tương lai.
Gardner đã chỉ ra rằng: Trường học thông thường chỉ đánh giá một trẻ học sinh thông qua 2 loại trí thông minh là trí thông minh về ngôn ngữ và trí thông minh về logic, và điều này là không chính xác. Trường học đã bỏ rơi các em có thiên hướng học tập thông qua âm nhạc, vận động, thị giác, giao tiếp nhiều học sinh đã có thể học tập tốt hơn nếu chúng được tiếp thu kiến thức bằng chính thế mạnh của chúng. Vì vậy khi áp dụng thuyết đa trí tuệ , GV có thể giúp HS phát triển khả năng của mình hơn, không đánh đồng hay cào bằng khả năng riêng của mỗi HS từ đó có cái nhìn nhân văn hơn với khả năng và thành tích của HS.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
GV cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi HS
Nhiều nhà tâm lý học, nhà giáo dục đã thử ứng dụng thuyết này vào quá trình nghiên cứu của mình. Trong số đó, Thomas Armstrong đã ứng dụng thành công một phần thuyết đa trí tuệ của H. Gardner vào việc giảng dạy và giáo dục.
Ông đã công bố một số cuốn sách nổi tiếng như: 7 loại hình trí thông minh, Bạn thông minh hơn bạn nghĩ, Đa trí tuệ trong lớp học, các cuốn sách này chủ yếu viết về các vấn đề giáo dục và hướng dẫn cha mẹ giáo dục con cái, giúp giáo viên dạy học theo các phương pháp nhằm phát huy các năng lực trí tuệ nổi trội của con em mình.
 * Vận dụng trong dạy học: 
Giáo viên cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh, mỗi loại trí tuệ đều quan trọng và mỗi học sinh đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh phải là nơi giúp đỡ, khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập theo các hướng khác nhau cho các chủ nhân tương lai của xã hội.
*Về phương pháp dạy học: 
Thuyết đa trí tuệ giúp giáo viên cách suy ngẫm, chọn lựa phương pháp dạy học sao cho hay nhất và phù hợp nhất với bản thân họ và họ hiểu thấu đáo vì sao phương pháp đó là hiệu quả hoặc chỉ hiệu quả với HS này mà không hiệu quả với HS kia.
Thuyết này cũng giúp GV áp dụng linh hoạt hơn các PPDH và kĩ năng sử dụng các tài liệu, các thiết bị dạy học đa dạng hơn, phong phú hơn. GV trong lớp học đa trí tuệ khác với trong lớp học truyền thống ngôn ngữ hoặc lôgic-toán học. Trong lớp học đa trí tuệ, GV phải linh hoạt thay đổi phương pháp và khéo léo chuyển từ lối dạy ngôn ngữ sang lối dạy không gian rồi lối dạy âm nhạc hay vận động, giao tiếp,
Qua nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, việc tổ chức dạy học bằng áp dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tích cực triển khai gần đây như đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, bàn tay nặn bột, bản đồ tư duy, sẽ tạo ra môi trường học tập đa trí tuệ rất hiệu quả.
Trong đó, phương pháp dạy học theo phương pháp kết hợp nhiều trí thông minh ở HS, góp phần phát triển toàn diện cho học sinh. Theo định hướng này, GV tổ chức dạy học kết hợp với sự tham gia của nhiều yếu tố “trí thông minh” trong cùng một hoạt động học:
Hoạt động 1: HS nghiên cứu tài liệu, tìm từ khóa (phát huy trí thông minh nội tâm, ngôn ngữ) sau đó đọc bài dưới sự hướng dân của GV.
Hoạt động 2: HS thực hành nhóm, lớp về nội dung, dưới sự dẫn dắt gợi ý của GV (phát huy trí thông minh giao tiếp);
Hoạt động 3: HS tham gia chơi trò chơi về chủ đề đang học dưới sự hướng dẫn của GV trong đó có sự kết hợp của âm nhạc, quan sát, vận động (phát huy trí thông minh ngôn ngữ, lôgic, không gian) 
Hoạt động 4: HS thuyết trình hay thực hành nói cùng bạn trước lớp. Việc thuyết trình cần cả ngữ điệu, âm điệu, điệu bộ cơ thể (phát huy trí thông minh giao tiếp, hình thể động năng, âm nhạc).
	Qua đây tôi cũng xin chia sẻ cách vận dụng thuyết đa trí tuệ vào giảng dạy của mình thông qua các hoạt động trong giờ học để học sinh nắm bài tốt hơn.
	Sau khi áp dụng hoạt động 1 và 2 trong lồng ghép vào nội dung bài học, thì hoạt động 3,4 là hoạt động giúp học sinh phát triển “trí thông minh” của chính bản thân mình rõ ràng nhất. Và hoạt động thường được lồng ghép vào các trò chơi với nhiều sự kết hợp của trí thông minh riêng biệt giúp mỗi học sinh không cảm thấy bị bỏ rơi trong giờ học “ngôn ngữ”.
Biện pháp 1: Sử dụng songs, chants trong dạy học
Với việc sử dụng các bài hát, bài chant đơn giản, vui tươi có liên quan đến chủ đề bài học có thể kích thích các học sinh thoải mái hơn và tai sẽ quen dần với vỏ âm thanh của một thứ tiếng khác tiếng mẹ đẻ đây là cách giúp học sinh thả lỏng trước khi vào bài. 
Một bài chant sử dụng trong Unit 8: This is my pen (SGK Tiếng Anh 3)
Chuẩn bị: 
- Băng, đĩa, máy chiếu.
- Bài chant 
Cách thực hiện:
- Giáo viên ổn định lớp và bật bài chant 1 đến 2 lần cho học sinh nghe và quan sát hình ảnh trong bài chant.
- Giáo viên cho học sinh nhẩm theo lời bài chant
- Giáo viên cho học sinh đọc bài chant theo nhịp từ 2 đến 3 lần.
Với bàn chant này, vừa mở bài chant chúng ta có thể cho học sinh nghe, quan sát hình và đọc theo mỗi đồ vật hiện lên lần lượt mà không cần đưa thêm chữ hay show bài chant. Đây cũng là cách áp dụng thuyết đa trí tuệ vào bài dạy một cách gián tiếp. Học sinh được kích thích trí thông minh của riêng mình qua nhịp điệu, âm thanh, hình ảnh và sự vận động xuất hiện hay biến mất của hình ảnh. Ngoài ra chúng ta có thể áp dụng các trò chơi để học sinh nhớ lại các kiến thức đã học và là bước Pre- tuyệt vời. 
Biện pháp 2 : Sử dụng trò chơi trong dạy học
Touch the pictures : tôi thấy đây là trò chơi có thể áp dụng cho bước Pre- hoặc Post- các kĩ năng nghe, nói và viết đều có hiệu quả.
Chuẩn bị: 
Một chiếc bàn.
Một số tấm flash card có liên quan đến chủ đề.
Một bài hoặc một đoạn nhạc vui nhộn.
Cách chơi: 
GV yêu cầu mỗi nhóm cử từ 1- 2 HS tham gia trò chơi
HS đứng xung quanh chiếc bàn có những tấm flashcard.
GV bật nhạc và HS sẽ di chuyển xung quanh bàn, HS vừa di chuyển có thể vừa nhún nhảy hay lắc lư theo nhạc. Nhạc dừng HS lập tức dừng lại. 
GV hô to tên một tấm card và HS sẽ dùng búa ( hoặc thước) đập vào tấm card. HS nào đập vào trước sẽ dành được tấm card. Lúc này GV sẽ yêu cầu HS đó dùng mẫu câu đã học có liên quan để nói về tấm card vừa đạt được. Nếu HS nói đúng sẽ dành dược tấm card về cho nhóm của mình, nếu sai thì HS sẽ trả tấm card lại chiếc bàn. GV sẽ bật nhạc và gọi tên liên tục để HS di chuyển và tham gia trò chơi cho đến khi kết thúc bài nhạc. Giáo viên có thể cho nhiều lượt học sinh tham gia trò chơi. Đội nào có nhiều flashcard hơn sẽ là đội chiến thắng. 
	 Một hoạt động trong Unit 17: Do you have any pets? (SGK tiếng Anh 3)
Great artist (Họa sĩ đại tài)
Chuẩn bị: 
Một chiếc bàn.
Một số tờ giấy A4 trắng (tùy thuộc vào số lượng HS tham gia).
Một bài hoặc một đoạn nhạc vui nhộn.
4 hoặc 6 cây bút màu (tùy thuộc vào số lượng nhóm trong lớp).
Cách chơi: 
GV nêu rõ chủ đề của trò chơi hôm nay ( school things, plcaes in the school, family, ..) .
GV yêu cầu mỗi nhóm cử từ 1- 2 HS tham gia trò chơi hoặc chia thành niều lượt chơi cho nhiều học sinh có thể
HS đứng xung quanh chiếc bàn, trên chiếc bàn có những tờ giấy A4 đặt sẵn.
GV bật nhạc và HS sẽ di chuyển xung quanh bàn, HS vừa di chuyển có thể vừa nhún nhảy hay lắc lư theo nhạc. 
Nhạc dừng HS lập tức dừng lại và vẽ nhanh hình ảnh có liên quan đến chủ đề của trò chơi vào tờ giấy gần mình nhất. Nhạc bật lên, HS lại tiếp tục di chuyển và nhạc dừng HS lại vẽ vào một tờ giấy gần mình cho đến khi hết giờ hoặc có tín hiệu kết túc từ giáo viên. 
GV sẽ yêu cầu các HS dùng mẫu câu đã học có liên quan để nói về những hình ảnh trên tờ giấy trước mặt mình. Với mỗi câu đúng với hình vẽ HS sẽ ghi được một điểm. GV có thể cho nhiều lượt học sinh tham gia để học sinh có nhiều hơn cơ hội thể hiện. Kết thức trò chơi, đội nào có tổng điểm cao nhất sẽ là đội chiến thắng.
Một hoạt động trong Unit 15: Do you have any toys?(SGK Tiếng anh 3)
Việc học từ vựng vô cùng quan trọng nhưng với học sinh đây lại không phải là việc dễ dàng và trò chơi sắp tới đây gần như có thể giúp các em giảm nhẹ áp lực khi học từ vựng. Đây có thể coi là một bản cam kết dễ thương của học sinh hơn là một trò chơi.
Calendar Diary(Nhật kí)
Đúng như tên gọi học sinh sẽ ghi lại quá trình học của mình và HS cũng tự đánh giá quá trình ghi nhớ và tiến bộ của bản thân qua thời gian học tập.
Chuẩn bị:
Gv chuẩn bị cho mỗi học sinh một tờ giấy A4 có 30-31 ô trống tương đương với số ngày trong tháng hoặc bản photo một tờ lịch để bàn của từng tháng.
Cách tiến hành
Vào ngày thứ 6 cuối cùng của hàng tháng GV sẽ tới lớp, phát cho mỗi HS một tờ “lịch” của tháng sau.
GV yêu cầu HS một ngày sẽ chọn cho mình một từ vựng yêu thích để học,( có thể là từ vựng trong sách, bên ngoài hay bất cứ từ gì mà em muốn), HS có thể viết từ vựng vào kèm phiên âm,vẽ hay dùng sticker hình ảnh về từ vựng mình muốn học. HS có thể tra từ điển, tra google hay hỏi GV để biết nghĩa từ mà HS thích.
Cuối tháng GV sẽ thu các “nhật kí” của HS lại và đặt các câu hỏi cho HS về các từ có trong “nhật kí”.
GV có thể yêu cầu HS đọc to , đặt câu hay viết các câu có thể thành lập với những từ có trong “nhật kí” và tiến tới xa hơn HS sẽ có thể sử dụng các từ trong nhật kí để viết các đoạn văn đơn giản. HS sẽ chia sẻ “nhật kí” của mình với bạn bè.
Qua “nhật kí” GV cũng như HS có thể đo được sự tiến bộ của HS. 
Một mẫu về Calendar Diary
Biện pháp 3:Về môi trường lớp học đa trí tuệ: 
Cần phải được thiết kế, bố trí, sắp xếp để phù hợp với nhu cầu của nhiều loại trí tuệ khác nhau ở HS. Ứng với mỗi loại trí tuệ, cần đặt một số câu hỏi theo gợi ý sau: Từ ngữ dùng trong lớp học đã phù hợp với HS chưa? HS được tiếp xúc với chữ viết như thế nào? (Ngô

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_thuyet_da_tri_tue_vao_day_hoc.doc