SKKN Một số biện pháp chỉ đạo đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung

“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội”[1].

“Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố căn bản về nhân cách cho trẻ em trước khi vào lớp một. Việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non, bảo đảm mọi trẻ em được tiếp cận giáo dục mầm non có chất lượng, công bằng và bình đẳng là trách nhiệm của các cấp, các ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội” [2].

Như chúng ta biết, trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc, được bảo vệ trong tình yêu thương của gia đình, nhà trường và xã hội. Bác Hồ, vị Lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, suốt đời hết mình chăm lo cho thế hệ măng non. Bác đã dành cho trẻ em những tình cảm yêu thương vô bờ bến. Bác đã Chỉ thị cho ngành giáo dục mầm non “Muốn cho người mẹ sản xuất tốt, cần tổ chức tốt những nơi giữ trẻ”.

Thật vậy, trường mầm non là nơi chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ từ những năm tháng đầu đời. Thời gian trẻ ở trường mầm non nhiều hơn thời gian trẻ ở nhà. Dinh dưỡng cho trẻ những năm đầu đời là tiền đề, là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển về mọi mặt sau này của đứa trẻ. Ở lứa tuổi này trẻ còn quá non nớt để tự bảo vệ mình, nên các nguy cơ xảy ra ngộ độc thực phẩm đối với trẻ là rất cao nếu như chúng ta thiếu đi một chút quan tâm, một chút trách nhiệm.

Thực phẩm là nguồn cung cấp dinh dưỡng hàng ngày cho cơ thể, giúp cơ thể khoẻ mạnh, chống lại các nguy cơ của bệnh tật đang có mặt ở khắp nơi trong môi trường, giúp người ta hoạt động và làm việc. “An toàn thực phẩm có tầm quan mối quan tâm lớn về tình trạng mất an toàn thực phẩm hiện nay trọng sự sống còn đối với sức khoẻ, hạnh phúc của từng người dân, giống nòi dân tộc và sự phát triển đất nước ta; trở thành thách thức an ninh phi truyền thống” [3].

 

doc 18 trang thuychi01 8151
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Nội dung
Trang
I. MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
4
3. Đối tượng nghiên cứu
4
4. Phương pháp nghiên cứu
4
II. NỘI DUNG
4
1. Cơ sở lý luận
4
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 
6
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
7
3.1. Xây dựng kế hoạch
7
3.2.Công tác phối hợp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
7
3.3.Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc hợp đồng mua, bán thực phẩm 
9
3.4.Các biện pháp phòng nhiễm bẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh nơi chế biến.
10
3.5.Vệ sinh môi trường
12
3.6.Tăng cường vai trò của nhà trường và phụ huynh
13
3.7.Tuyên truyền giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm trong cán bộ giáo viên và học sinh
13
3.8.Tổ chức Hội thi Giáo viên dinh dưỡng giỏi. 
14
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
15
1. Kết luận
15
2. Kiến nghị
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội”[1].
“Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố căn bản về nhân cách cho trẻ em trước khi vào lớp một. Việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non, bảo đảm mọi trẻ em được tiếp cận giáo dục mầm non có chất lượng, công bằng và bình đẳng là trách nhiệm của các cấp, các ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội” [2].
Như chúng ta biết, trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc, được bảo vệ trong tình yêu thương của gia đình, nhà trường và xã hội. Bác Hồ, vị Lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, suốt đời hết mình chăm lo cho thế hệ măng non. Bác đã dành cho trẻ em những tình cảm yêu thương vô bờ bến. Bác đã Chỉ thị cho ngành giáo dục mầm non “Muốn cho người mẹ sản xuất tốt, cần tổ chức tốt những nơi giữ trẻ”. 
Thật vậy, trường mầm non là nơi chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ từ những năm tháng đầu đời. Thời gian trẻ ở trường mầm non nhiều hơn thời gian trẻ ở nhà. Dinh dưỡng cho trẻ những năm đầu đời là tiền đề, là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển về mọi mặt sau này của đứa trẻ. Ở lứa tuổi này trẻ còn quá non nớt để tự bảo vệ mình, nên các nguy cơ xảy ra ngộ độc thực phẩm đối với trẻ là rất cao nếu như chúng ta thiếu đi một chút quan tâm, một chút trách nhiệm. 
Thực phẩm là nguồn cung cấp dinh dưỡng hàng ngày cho cơ thể, giúp cơ thể khoẻ mạnh, chống lại các nguy cơ của bệnh tật đang có mặt ở khắp nơi trong môi trường, giúp người ta hoạt động và làm việc. “An toàn thực phẩm có tầm quan mối quan tâm lớn về tình trạng mất an toàn thực phẩm hiện nay trọng sự sống còn đối với sức khoẻ, hạnh phúc của từng người dân, giống nòi dân tộc và sự phát triển đất nước ta; trở thành thách thức an ninh phi truyền thống” [3].
Vệ sinh an toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người, bảo đảm thực phẩm không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hoá học, sinh học, hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép, không phải là sản phẩm của động vật, thực vật bị bệnh có thể gây hại cho sức khỏe con người.
[1] Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị TW 8, Khóa XI .
[2] Quyết định số 1677/QĐ-TTg ngày 03/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển Giáo dục mầm non giai đoạn 2018-2025”.
[3] Kết luận số 11-KL/TW, ngày 19/01/2017 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 08 của Ban Bí thư khoá XI về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới”.
Bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và an toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng các bệnh do kém chất lượng về vệ sinh thực phẩm và thức ăn ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ khá cao.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng trong pha chế nước giải khát, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai  Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, diệt cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng quy định gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm. Việc bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc phát triển đã dẩn đến các vụ ngộ độc thực phẩm. Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ độc thức ăn mà còn là các bệnh mãn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc hại từ môi trường bên ngoài vào thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư.
Trong thời gian qua, cùng với việc nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong các trường mầm non bán trú được quan tâm thực hiện một cách nghiêm túc. Đây là một tiêu chí quan trọng, được đặt lên hàng đầu của hầu hết các trường tổ chức ăn bán trú, đặc biệt là các trường mầm non. 
Là một chuyên viên phụ trách công tác nuôi dưỡng bậc học mầm non, với trách nhiệm của bản thân luôn quan tâm đến vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ trong công tác tổ chức bán trú để chất lượng nuôi dưỡng trẻ ngày càng nâng cao, giúp trẻ luôn được phát triển một cách toàn diện và lành mạnh. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá thực trạng việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung.
Tìm ra những biện pháp nhằm chỉ đạo đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Các biện pháp chỉ đạo đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu, thu thập thông tin từ các văn bản, Nghị quyết có liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Tiến hành khảo sát thực tế việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung.
- Phương pháp thực hành, trải nghiệm: Chỉ đạo các trường thực hiện việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm .
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Xử lý kết quả nghiên cứu bằng bảng thống kê số liệu.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá kết quả: Sử dụng những thông tin, số liệu đã nghiên cứu để so sánh thực trạng vấn đề trước khi nghiên cứu và đánh giá hiệu quả khi sử dụng các biện pháp trong công tác chỉ đạo đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm .
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu và xem xét lại những kết quả đã đạt được trong quá trình đưa ra các biện pháp để giải quyết vấn đề, từ đó rút ra những kinh nghiệm tốt trong quá trình chỉ đạo các trường mầm non tổ chức ăn bán trú đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm .
	II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho các cấp học. Đổi mới nội dung 
phương pháp dạy học, chú trọng phát triển giáo dục mầm non, tăng cường cơ sở vật chất, chấn chỉnh nề nếp, đánh giá đúng thực chất, chất lượng giáo dục. 
Cùng với nhiệm vụ phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em, hiện nay vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là mối quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Trong những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc vệ sinh an toàn thực phẩm ở các địa phương gây ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ. Nhà trẻ, mẫu giáo là nơi tập trung đông trẻ, bản thân trẻ còn nhỏ bé, trẻ chưa nhận thức được đầy đủ về dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm nếu để xảy ra ngộ độc thực phẩm ở lứa tuổi này thì hậu quả sẽ khôn lường. Vì vậy giáo dục dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng quy chế thực phẩm sạch, đề phòng ngộ độc thức ăn là vấn đề có ý nghĩa thực tế, thiết thực tổ chức cho trẻ ăn bán trú và vô cùng quan trọng trong trường mầm non.
Vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí rất quan trọng đối với sức khoẻ con người, vừa kế thừa các tập quán tốt của từng dân tộc, vừa tiếp thu nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao sức lao động và phòng chống bệnh tật. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh thực phẩm những thức ăn làm chất lượng vẫn chiếm tỷ lệ cao ở nhiều nước.
          Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới về đánh giá các chương trình hành động đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trên toàn cầu đã xác định được một nguyên nhân chính gây tử vong cho trẻ em là các bệnh đường ruột, trong đó phổ biến là bệnh tiêu chảy. Đồng thời cũng nhận thấy nguyên nhân gây các bệnh trên là do thực phẩm bị nhiễm khuẩn. Theo thống kê của Bộ y tế nước ta, trong 10 nguyên nhân chủ yếu gây tử vong ở Việt Nam thì nguyên nhân do vi sinh vật gây bệnh đứng hàng thứ hai. Mặt khác tình hình chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong những năm gần đây không ổn định, số các mẫu lương thực, thực phẩm không đạt yêu cầu vệ sinh vẫn chiếm tỷ lệ cao.
Đối với nước ta cũng như những nước đang phát triển, lương thực, thực phẩm thuộc loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa về chính trị, xã hội và đời sống rất quan trọng.
Sự ô nhiễm do các chất độc hại, sự giảm chất lượng của sản phẩm trong quá trình gieo trồng, thu hoạch, dự trữ, bảo quản, chế biến và phân phối lưu thông gây tổn hại rất lớn, có khi lên tới 30-50% tổng số lượng thu hoạch.
Ngoài yếu tố chính về sinh vật, lượng lương thực, thực phẩm còn bị ô nhiễm, độc hại ngày càng tăng do sự sử dụng không đúng thuốc trừ sâu, diệt cỏ, phân bón trong nông nghiệp, các loại thuốc tăng trọng trong quá trình chăn nuôi đối với ngô, lạc, gạo, các kim loại nặng như đồng, chì trong quá trình sản xuất đồ hộp, sữa, rau và quả  hoặc sử dụng gian dối các chất phụ gia, phẩm màu trong quá trình chế biến bánh, keo, đồ uống, thực phẩm
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cho con người nói chung và đặc biệt trong các trường mầm non nói riêng có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non có rất nhiều khâu nhưng trước hết đặc biệt quan trọng ngay từ khâu đầu tiên là giao nhận thực phẩm.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Hà Trung là huyện vùng đồng chiêm trũng nằm ở phía Bắc của tỉnh Thanh Hoá, có 25 xã, thị trấn (trong đó có 7 xã miền núi thấp, 5 xã có đạo Thiên chúa giáo, trên địa bàn huyện có 2 dân tộc Kinh và Mường sinh sống). Kinh tế đang từng bước phát triển, tình hình trật tự xã hội được giữ vững, tỷ lệ dân số ổn định. Được sự quan tâm đúng mức của chính quyền các cấp và sự ủng hộ, chăm lo đến giáo dục của các tầng lớp nhân dân giúp cho chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục mầm non huyện nhà phát triển đáp ứng với yêu cầu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên địa bàn toàn huyện có 25 trường mầm non, trong đó có 11 điểm lẻ. Tổng số 25/25 trường tổ chức ăn bán trú, đạt tỷ lệ 100%. Có 33 bếp ăn bán trú trên tổng số 36 điểm trường (tính cả điểm chính), tỷ lệ 91,7%; 22/25 trường, tỷ lệ 88% có bếp ăn đảm bảo quy cách, được cấp giấy chứng nhận bếp ăn đảm bảo điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm; số bếp ăn được cấp giấy chứng nhận bếp ăn đảm bảo điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm là 23/33 bếp, tỷ lệ 69,7%%.
Tổng số đội ngũ CBQL, GV, NV là 414 người. Trong đó CBQL là 63 người; GVNT là 88 người (trong đó có 1 giáo viên dạy nhóm trẻ TT, 7 giáo viên thuyên chuyển từ THCS); GVMG là 227 người (trong đó có 10 giáo viên thuyên chuyển từ THCS); nhân viên 26 người (trong đó có 25 nhân viên kế toán hợp đồng trường, 1 nhân viên phục vụ (thuyên chuyển từ THCS). 
Tổng số nhóm lớp 226. Trong đó có 58 nhóm trẻ và 168 lớp mẫu giáo. Trẻ đến trường là 7182: trong đó có 1513 trẻ nhà trẻ và 5669 trẻ mẫu giáo. 
Tổng số nhóm, lớp tổ chức ăn bán trú là 219: trong đó có 55 nhóm trẻ và 164 lớp mẫu giáo. Số trẻ ăn bán trú là 6751: trong đó có 1264 trẻ nhà trẻ và 5487 trẻ mẫu giáo.
Tuy nhiên, bên cạnh đó Hà Trung vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng:
	Là một huyện đồng bằng chiêm chũng nên hay bị lũ lụt cục bộ, cuộc sống và sản xuất của người dân gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.
	Cha mẹ trẻ phần lớn làm nông nghiệp và công nhân, nên đời sống còn khó khăn, mức đóng góp tiền ăn cho trẻ thấp nên chất lượng bữa ăn của trẻ chưa được nâng cao, thời gian quan tâm, chăm sóc của cha mẹ dành cho trẻ không có nhiều, chính vì vậy đã phó mặc hết cho giáo viên và nhà trường. 
	Các trường mầm non trên địa bàn huyện còn thiếu nhiều giáo viên nên một số hoạt động trong nhà trường gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
Điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu, chưa đồng bộ nên chưa đáp ứng đủ nhu cầu chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Một số địa phương không quan tâm đầu tư bổ sung, cải tạo, sửa chữa bếp ăn chưa đảm bảo điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm.
Một số điểm lẻ chưa có bếp ăn bán trú nên các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở một số trường mầm non thực hiện chưa đồng bộ.
Số nhân viên làm công tác nuôi dưỡng chủ yếu là hợp đồng trường, mức lương thấp nên đôi lúc các đồng chí nhân viên chưa thực sự yên tâm làm việc, một số đồng chí chỉ làm được một thời gian lại bỏ làm việc khác với mức lương cao hơn.
Nguồn thực phẩm nhập vào trường hầu hết chưa rõ nguồn gốc xuất sứ, phần lớn các nhà trường mới chỉ hợp đồng với người bán thực phẩm là người quen để làm. 
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch
Kế hoạch là những điều vạch ra một cách có hệ thống và cụ thể về cách thức, trình tự, thời hạn tiến hành những công việc dự định làm trong một thời gian nhất định với mục tiêu nhất định [4].
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên trong bốn chức năng của quản lý: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Lập kế hoạch là chức năng rất quan trọng đối với mỗi nhà quản lý bởi vì nó gắn liền với việc lựa chọn mục tiêu và chương trình hành động trong tương lai, giúp nhà quản lý xác định được các chức năng khác còn lại nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra.
Ngay từ đầu năm học chỉ đạo của các trường xây dựng kế hoạch chăm sóc nuôi dưỡng và nội dung đảm bảo vệ sinh an toàn thựcphẩm phù hợp với đặc điểm thực tế. Xây dựng thực đơn, khẩu phần ăn cho trẻ theo độ tuổi hàng ngày, hàng tuần, theo mùa hợp lý, cân đối dinh dưỡng và triển khai tới các bộ phận, đoàn thể của nhà trường và triển khai sâu rộng trong toàn thể cha mẹ học sinh như: thông qua cuộc họp cha mẹ học sinh, tranh ảnh, thông qua Hội thi, động viên phụ huynh cùng tham gia phối hợp thực hiện.
3.2. Biện pháp 2: Công tác phối hợp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
* Phối hợp với TT Y tế dự phòng tỉnh:
[4] Hệ thống từ điển chuyên ngành mở free online Vietnamese tratu.soha.vn
Nước ăn uống là nước dùng cho các mục đích ăn uống, chế biến thực phẩm do các cơ sở cung cấp nước cung cấp, bảo đảm chất lượng theo các quy chuẩn kỹ thuật do Bộ Y tế ban hành [5].
Nước sinh hoạt là nước sử dụng cho các mục đích sinh hoạt thông thường, không sử dụng để ăn uống trực tiếp hoặc dùng cho chế biến thực phẩm do các cơ sở cung cấp nước cung cấp, bảo đảm chất lượng theo các quy chuẩn kỹ thuật do Bộ Y tế ban hành[5].
Căn cứ vào các quy định về tiêu chuẩn, chất lượng nguồn nước ăn uống, nước sinh hoạt trong các trường mầm non. Phòng GD&ĐT phối hợp với TT Y tế dự phòng tỉnh thống nhất các chỉ tiêu cần phải xét nghiệm. Thống nhất hợp đồng với TT Y tế dự phòng tỉnh lấy mẫu và xét nghiệm mẫu nước cho các trường mầm non trên địa bàn huyện Hà Trung. 
Trong năm học vừa có 21/25 trường xét nghiệm nguồn nước (4 trường còn lại sử dụng nguồn nước máy nên không phải xét nghiệm). Tổng số có 21 mẫu nước, trong đó có 11/21 mẫu nước đạt yêu cầu, tỷ lệ 52,4%. Các mẫu nước không đạt là do nhiễm khuẩn Colifoms và E.coli (trong đó có 6 trường nhiễm Colifoms; 4 trường nhiễm cả Colifoms và E.coli).
Sau khi có kết quả xét nghiệm nguồn nước, phòng GD&ĐT đã có văn bản chỉ đạo các trường mầm non có nguồn nước nhiễm khuẩn Colifoms và E.coli khẩn trương xây dựng các biện pháp khác phục triệt để. Cụ thể:
- Trước hết nhà trường cần đun sôi kỹ thức ăn, nước uống trước khi ăn, uống.
- Sử dụng máy lọc nước đảm bảo chất lượng, thường xuyên thay cục lọc để nguồn nước sử dụng luôn sạch và an toàn.
- Thường xuyên vệ sinh các dụng cụ chứa đựng nước.
- Phối hợp với trạm Y tế xã khử trùng nguồn nước, dụng cụ chứa đựng nước bằng Cloramin B.
Sau khi chỉ đạo các trường thực hiện các biện pháp khắc phục nêu trên, đã lấy mẫu nước xét nghiệm lại, kết quả 10/10 mẫu nước xét nghiệm lại đạt tiêu chuẩn chất lượng. 
* Phối hợp với Chi cục ATVSTP tỉnh:
Đối với Chi cục ATVSTP tỉnh quản lý 11 trường mầm non trên địa bàn huyện có 200 suất ăn trở lên.
- Tổ chức tập huấn và cấp giấy xác nhận kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên phục vụ bán trú. Kết quả có 213 người, tỷ lệ 100% được cấp giấy xác nhận kiến thức về VSATTP.
[5] Thông tư số 50/2015/TT-BYT ngày 11/ 12/2015 của Bộ Y tế.
- Tổ chức kiểm tra các điều kiện về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại các bếp ăn hàng năm (mỗi năm ít nhất 1 lần).
- Tổ chức kiểm tra, thẩm định và cấp Giấy chứng nhận bếp ăn đảm bảo an toàn thực phẩm theo văn bản đề nghị của các xã, thị trấn (kỳ hạn 3 năm 1 lần).
 Kết quả có 11/11 trường mầm non được Chi cục VSATTP tỉnh cấp giấy chứng nhận “Bếp ăn tập thể đảm bảo ATTP”.
* Phối hợp với TT Y tế huyện:
Đối với Trung tâm Y tế huyện quản lý 14 trường mầm non trên địa bàn huyện có dưới 200 suất ăn.
- Tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho 401/401 cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên phục vụ bán trú. Riêng đối với nhân viên trực tiếp nấu ăn được xét nghiệm phân để phát hiện các bệnh về ký sinh trùng, tả, lỵ, thương hàn. Thông qua đó, phát hiện những trường hợp mắc bệnh thuộc danh mục các bệnh hoặc chứng bệnh truyền nhiễm mà người lao động không được phép tiếp xúc trực tiếp trong quá trình chế biến thực phẩm.
- Tổ chức tập huấn và cấp giấy xác nhận kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên phục vụ bán trú. Kết quả có 150 người, tỷ lệ 100% được cấp giấy xác nhận kiến thức về VSATTP.
- Tổ chức kiểm tra các điều kiện về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại các bếp ăn hàng năm (mỗi năm ít nhất 1 lần).
- Tổ chức kiểm tra, thẩm định và cấp Giấy chứng nhận bếp ăn đảm bảo an toàn thực phẩm theo văn bản đề nghị của các xã, thị trấn (kỳ hạn 3 năm 1 lần).
Kết quả có 14/14 trường mầm non được UBND huyện cấp giấy chứng nhận “Bếp ăn tập thể đảm bảo ATTP”.
3.3. Biện pháp 3: Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc hợp đồng mua, bán thực phẩm 
Hợp đồng mua, bán thực phẩm là đầu mối quan trọng trong công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay. Hợp đồng mua, bán t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_dam_bao_an_toan_ve_sinh_thuc_p.doc