SKKN Lựa chọn và áp dụng một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích nhảy xa kiểu ngồi cho học sinh lớp 9
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác Giáo dục thể chất đối với thế hệ trẻ, xem đó là động lực quan trọng và khẳng định cần có chính sách chăm sóc giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ Việt nam phát triển hài hòa về các mặt thể chất, tinh thần, đạo đức và trí tuệ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII đã khẳng định “Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”
Công tác giáo dục thể chất và các hoạt động thể dục thể thao trong các trường học là một mặt giáo dục quan trọng, không thể thiếu được trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo góp phần thực hiện mục tiêu: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước để đáp ứng nhu cầu sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống giáo dục thể chất trong trường học là tổ hợp gồm rất nhiều các bài tập được xây dựng trên cơ sở các môn điền kinh và thể thao. Trong đó Điền kinh nói chung và nội dung nhảy xa nói riêng là một môn học cơ bản của giáo dục thể chất trong trường học. Các động tác nhảy xa mang tính chất tự nhiên liên tục gần với sinh hoạt bình thường hàng ngày của con người. Do đó việc thực hiện các động tác của môn nhảy này không khó lắm đối với cả thanh thiếu niên và kể cả những người mới tập. Để đạt được thành tích cao trong thể thao nói chung và trong nội dung nhảy xa nói riêng thì ngoài yếu tố kỹ thuật động tác thì yếu tố thể lực gồm sức nhanh, sức mạnh, sức bền và độ khéo léo của người tập là hết sức quan trọng, khi người tập đảm bảo được các tố chất thể lực cần thiết sẽ giúp cho việc thực hiện các kỹ thuật động tác sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn, thành tích sẽ tốt hơn.
Trong kỹ thuật nhảy xa kiểu ngồi được chia làm 4 giai đoạn, giai đoạn chạy đà, giai đoạn giậm nhảy, giai đoạn trên không và giai đoạn tiếp đất, giai đoạn quyết định đến thành tích của nhảy xa là giai đoạn chạy đà và giậm nhảy, chạy độ tốc độ, giậm nhảy tích cực sẻ tạo quỹ đạo bay hợp lý nhất để đưa cơ thể đi xa nhất. Chính vì vậy yếu tố thể lực của người tập là hết sức quan trọng mà ở đây chính là yếu tố sức mạnh tốc độ là yếu tố chính quyết định cho hai giai đoạn này. Xuất phát từ yếu tố đó bản thân thực hiện đề tài “Lựa chọn và áp dụng một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích nhảy xa kiểu ngồi cho học sinh lớp 9”
PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác Giáo dục thể chất đối với thế hệ trẻ, xem đó là động lực quan trọng và khẳng định cần có chính sách chăm sóc giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ Việt nam phát triển hài hòa về các mặt thể chất, tinh thần, đạo đức và trí tuệ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII đã khẳng định “Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” Công tác giáo dục thể chất và các hoạt động thể dục thể thao trong các trường học là một mặt giáo dục quan trọng, không thể thiếu được trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo góp phần thực hiện mục tiêu: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước để đáp ứng nhu cầu sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống giáo dục thể chất trong trường học là tổ hợp gồm rất nhiều các bài tập được xây dựng trên cơ sở các môn điền kinh và thể thao. Trong đó Điền kinh nói chung và nội dung nhảy xa nói riêng là một môn học cơ bản của giáo dục thể chất trong trường học. Các động tác nhảy xa mang tính chất tự nhiên liên tục gần với sinh hoạt bình thường hàng ngày của con người. Do đó việc thực hiện các động tác của môn nhảy này không khó lắm đối với cả thanh thiếu niên và kể cả những người mới tập. Để đạt được thành tích cao trong thể thao nói chung và trong nội dung nhảy xa nói riêng thì ngoài yếu tố kỹ thuật động tác thì yếu tố thể lực gồm sức nhanh, sức mạnh, sức bền và độ khéo léo của người tập là hết sức quan trọng, khi người tập đảm bảo được các tố chất thể lực cần thiết sẽ giúp cho việc thực hiện các kỹ thuật động tác sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn, thành tích sẽ tốt hơn. Trong kỹ thuật nhảy xa kiểu ngồi được chia làm 4 giai đoạn, giai đoạn chạy đà, giai đoạn giậm nhảy, giai đoạn trên không và giai đoạn tiếp đất, giai đoạn quyết định đến thành tích của nhảy xa là giai đoạn chạy đà và giậm nhảy, chạy độ tốc độ, giậm nhảy tích cực sẻ tạo quỹ đạo bay hợp lý nhất để đưa cơ thể đi xa nhất. Chính vì vậy yếu tố thể lực của người tập là hết sức quan trọng mà ở đây chính là yếu tố sức mạnh tốc độ là yếu tố chính quyết định cho hai giai đoạn này. Xuất phát từ yếu tố đó bản thân thực hiện đề tài “Lựa chọn và áp dụng một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích nhảy xa kiểu ngồi cho học sinh lớp 9” II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Thông qua đề tài này nhằm nghiên cứu lựa chọn một số bài tập bổ trợ phù hợp nhằm phát triển, nâng cao tố chất sức mạnh tốc độ cho học sinh, để giúp cho các em thuận lợi trong việc học tập, tiếp thu, thực hiện kỹ thuật được thuận lợi và đạt thành tích cao trong quá trình học tập môn thể dục nói chung và nội dung nhảy xa nói riêng. Đồng thời xuất phát từ tính hiệu quả của đề tài có thể nhân rộng, áp dụng các biện pháp tương tự cho các nội dung khác trong giảng dạy bộ môn thể dục ở nhà trường THCS nói riêng và trong trường THPT nói chung. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Nghiên cứu lựa chọn và áp dụng một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích nhảy xa kiểu ngồi cho học sinh lớp 9 trường THCS Yên Trường - Yên Định – Thanh Hóa. IV. THỜI GIAN – ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU Thời gian Đề tài này được tiến hành từ ngày 19 tháng 9 năm 2016 đến 01 tháng 4 năm 2017 và được tiến hành qua các giai đoạn - Giai đoạn 1: Từ ngày 19 tháng 9 năm 2016 đến ngày 12 tháng 11 năm 2016 tìm hiểu, nghiên cứu, thu thập kết quả thực trạng. - Giai đoạn 2: Từ ngày 13 tháng 11 năm 2016 đến ngày 31 tháng 12 năm 2016 nghiên cứu tài liệu, tham khảo các ý kiến đồng nghiệp nhằm lựa chọn, xây dựng một số biện pháp phù hợp để tiến hành áp dụng đề tài. - Giai đoạn 3: Từ 04 tháng 01 năm 2017 đến ngày 01 tháng 4 năm 2017 tiến hành thực nghiệm đề tài, thu thập số liệu và hoàn thành đề tài. Địa điểm Sân học thể dục thể thao trong nhà trường V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện được mục đích nghiên cứu của đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp sau đây: 1. Phương pháp đọc và phân tích tài liệu Để tìm hiểu cơ sở lý luận về các phương pháp tổ chức học tập bộ môn thể dục ở trường phổ thông. Qua phương pháp này tôi nghiên cứu các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, các tài liệu liên quan đến đặc điểm tâm sinh lý học sinh, các vấn đề liên quan đến cơ sở vật chất, bãi tập, các bài tập bổ trợ phù hợp với đối tượng nghiên cứu. Từ đó xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn cho việc lựa chọn cũng như tiến hành đề tài. 2. Phương pháp quan sát sư phạm Phương pháp quan sát sư phạm là phương pháp nghiên cứu khoa học mà người nghiên cứu tiếp cận trực tiếp với thực tế khách quan (Đối tượng thực nghiệm và đối tượng nghiên cứu) để thu thập được các số liệu giúp cho việc đánh giá kết quả nghiên cứu. Với phương pháp quan sát sư phạm trong nghiên cứu đề tài khoa học tôi chia làm hai nhóm: - Quan sát sư phạm trực tiếp: Người nghiên cứu tiếp cận bằng giác quan của mình - Quan sát sư phạm gián tiếp: Người nghiên cứu tiếp cận đối tượng thông qua các phương tiện, các hệ thống đánh giá thống kê (quay phim, chụp ảnh, hệ thống bảng điểm). 3. Phương pháp thực nghiệm sư pham. Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài tôi thực hiện theo phương pháp song song. Trong quá trình nghiên cứu tôi đã phân tích thành hai nhóm, mỗi nhóm 26 em cùng lứa tuổi, địa bàn, tương đương nhau về sức khỏe, buổi tập. Nhóm đối chiếu thực hiện các bài tập theo giáo án bình thường, nhóm thực nghiệm tập theo giáo án riêng của tôi. 4. Phương pháp phỏng vấn- lấy ý kiến Để có những cơ sở thực tiễn, phương pháp này sử dụng nhằm tìm hiểu về thực trạng mà giáo viên sử dụng các bài tập bổ trợ trong quá trình giảng dạy môn thể dục nói chung và nội dung nhảy xa nói riêng, để bản thân có sự lựa chọn phù hợp nhất vào thực hiện đề tài này. 5. Phương pháp toán học thống kê - Công thức tính trung bình: = - Công thức tính độ lệch chuẩn: = - Công thức tính phương sai: = (n<30) - Công thức tính hệ số biến sai: Cv = .100% - Công thức so sánh hai số trung bình: T = Trong đó: - : là ký hiệu tổng hợp - : Là giá trị trung bình - : là giá trị quan sát thứ i - n: là tổng số cá thể được quan sát GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Tâm lý lứa tuổi học sinh THCS Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi quá độ và là giai đoạn rất nhạy cảm, có sự phát triển đặc biệt mạnh mẽ, linh hoạt của các đặc tính nhân cách. Các em luôn mong muốn thử sức mình theo các phương hướng khác nhau, nên hành vi của các em phức tạp và mâu thuẫn. Ở lứa tuổi này các em luôn muốn thể hiện mình, luôn tỏ ra mình là người lớn, muốn mọi người tôn trọng mình. Ở lứa tuổi này các em thích được độc lập sáng tạo, chủ động trong mọi hành vi hoạt động của mình từ chương trình kế hoạch cách thức tiến hành, kết quả được mọi người đánh giá khách quan. Vì vậy cần phải thường xuyên giám sát và giáo dục cho phù hợp trên cơ sở phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, biết điều chỉnh và tổ chức hoạt động, tạo điều kiện phát triển tốt các khả năng cho các em. Trong quá trình giảng dạy cần tổ chức và khuyến khích động viên các em, cần có sự quan tâm, định hướng, kiểm tra, theo dõi thường xuyên giúp đỡ để quá trình học tập có kết quả, từ đó thành tích môn học mới được nâng lên. 2. Đặc điểm giải phẫu, sinh lý lứa tuổi học sinh THCS Để chất lượng giảng dạy bộ môn đạt hiệu quả tốt nhất, giáo viên cần nắm vững các đặc điểm giải phẩu tâm lý lứa tuổi của học sinh. Lứa tuổi học sinh THCS đây là thời kỳ quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trường thành, thời kỳ các em có sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể. - Đối với hệ xương: Hệ xương đang diễn ra quá trình cốt hoá về hình thái, làm cho các em lớn lên rất nhanh, xương sọ phần mặt phát triển mạnh, ở các em gái đang diễn ra quá trình hoàn thiện các mảnh của xương chậu. Dưới 14 tuổi vẫn còn có các đốt sụn hoàn toàn giữa các đốt xương sống, do đó cột sống dễ bị cong, bị vẹo khi đứng, ngồi, vận động, mang vác vật nặng... không đúng tư thế. Giáo dục thể chất có tác dụng rất tốt cho sự phát triển của hệ xương, nhưng phải chú ý đến tư thế, lượng vận động và sự phù hợp của các bài tập tác động lên cơ thể các em để tránh sự tác động sai lệch trong sự phát triển của hệ xương. - Đối với hệ cơ: Sự tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất vào cuối thời kỳ dậy thì. Cuối tuổi thiếu niên, cơ thể của các em đã rất khoẻ mạnh (các em trai thích đọ tay, đá bóng để thể hiện sức mạnh của cơ bắp...). Tuy nhiên, cơ thể thiếu niên chóng mệt và các em không làm việc lâu bền như người lớn. Nên chú ý điều đó khi tổ chức cho các em tập luyện phù hợp với lượng vận động. - Đối với hệ tuần hoàn: Thể tích tim tăng nhanh, tim to hơn, hoạt động mạnh hơn, trong khi đường kính của các mạch máu lại phát triển chậm hơn dẫn đến sự rối loạn tạm thời của tuần hoàn máu. Do đó các em thường bị mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, huyết áp tăng... khi phải tập luyện quá sức hoặc tập luyện trong một thời gian kéo dài. - Đối với hệ thần kinh: Sự phát triển của hệ thống tín hiệu thứ nhất và tín hiệu thứ hai, giữa hưng phấn và ức chế cũng diễn ra mất cân đối (Quá trình hưng phấn mạnh hơn ức chế). Do đó khi học tập các em dễ tập trung tư tưởng, nhưng nếu thời gian kéo dài, nội dung nghèo nàn, hình thức hoạt động đơn điệu, thì thần kinh sẽ chóng mệt mỏi và dễ phân tán sức chú ý. 3. Cơ sở khoa học Như chúng ta đã biết sức mạnh của con người là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề kháng lại nó bằng sự nỗ lực của cơ bắp. Lực do con người sản sinh ra phụ thuộc rất nhiều vào khối lượng vật thể chịu tác động và tốc độ di chuyển của vật thể đó. Nếu con người thực hiện một loạt động tác với nỗ lực cơ bắp tối đa để làm chuyển động những vật thể có khối lượng khác nhau thì lực sinh ra cũng khác nhau. Khối lượng vật thể quá lớn thì lực mà con người tác động vào nó không còn phụ thuộc vào khối lượng vật thể nữa mà chỉ phụ thuộc vào sức lực của con người. Cũng bằng thực nghiệm người ta chứng minh được giữa lực mà tốc độ có tương quan tỉ lệ nghịch với nhau, tốc độ càng cao thì lực càng nhỏ và ngược lại. Trên cơ sở đó người ta chia năng lực phát huy sức mạnh của con người thành hai loại: Sức mạnh đơn thuần (khả năng sinh lực trong các động tác chậm hoặc tĩnh) Sức mạnh tốc độ (khả năng sinh lực trong các động tác nhanh) Mức độ hoạt động của cơ bị quy định bởi hai nhân tố. 1, Xung động từ các nơ ron thần kinh vận động trong sừng trước tủy sống đến cơ. 2, Phản ứng của cơ tức là lực do nó sinh ra để đáp ứng lại xung động thần kinh. Phản ứng của cơ phụ thuộc vào thiết diện sinh lí và đặc điểm cấu trúc của nó: ảnh hưởng dinh dưỡng của hệ thần kinh trung ương thông qua hệ thống (ad re na lin) giao cảm, độ dài của cơ tạm thời có kích thích và một số nhân tố khác. Cơ chế chủ đạo cho phép thay đổi tức thời mức độ hoạt động của cơ là đặc điểm của xung động li tâm. Sự thay đổi mức độ hoạt động của các cơ được thực hiện bằng hai cách. Một là, huy động số lượng khác nhau, các đơn vị vận động vào hoạt động. Hai là, thay đổi tần số xung động li tâm (trong căng cơ tối đa, trong một giây có thể từ 35 đến 40 xung động) Nếu lực do cơ phát huy chỉ vào khoảng 20 đến 80% khả năng tối đa của nó thì cơ chế điều hòa số lượng sợi cơ có ý nghĩa cơ bản. Điều đó có nghĩa: Nội lực kích thích nhỏ (trọng lượng nhỏ) thì chỉ có số ít sợi cơ hoạt động tích cực trong trường hợp lực do cơ phát huy đạt chỉ số tối đa chỉ có thể xẩy ra cách điều hòa thứ ba - đồng bộ hóa hoạt động các sợi cơ. Ở những người không tập luyện thường không quá 20% xung động đồng bộ với nhau. Cùng với sự phát triển của trình độ tập luyện khả năng điều hòa đồng bộ tăng lên rất nhiều. Để phát triển sức mạnh, vấn đề quan trọng là phải lựa chọn được lực đối kháng, lực đối kháng bên ngoài là mặt kích thích sinh lí có cường độ nhất định. Qua nghiên cứu về các đặc điểm cơ chế sinh lí của các bài tập với lực đối kháng khác nhau cho thấy, muốn phát triển được sức mạnh thì nhất thiết phải tạo được sự căng cơ tối đa. Nếu không thường xuyên tập luyện đến mức căng cơ tương đối cao thì sức mạnh sẽ không được phát triển. Tập luyện đến mức tăng cơ quá nhiều sẽ làm giảm sút sức mạnh thực tế, thường có 3 cách tạo tăng cơ tối đa. Một là: Lặp lại cực hạn lượng đối kháng chưa đến mức tối đa. Hai là: Sử dụng lượng đối kháng đối kháng tối đa. Ba là: Sử dụng trọng lượng chưa tới mức tối đa đến mức cực đại. Qua các cơ sở lí luận trên, tôi nhận thấy để rèn luyện nhanh chóng phát huy được sức mạnh, người ta thường sử dụng phương pháp nỗ lực động lực, trong trường hợp này tăng cơ tối đa được tạo nên bằng lượng đối kháng dưới sức dưới hạn và tốc độ lớn nhất. Trong rèn luyện sức mạnh - tốc độ cần lưu ý rằng động tác phải được thực hiện với biên độ cực đại, nếu thực hiện với biên độ hạn chế (có chỗ dừng) thì những mối liên hệ phối hợp bất lợi sẽ được củng cố, cần kết hợp các bài tập sức mạnh tốc độ với các bài tập sức mạnh đơn thuần và lấy các bài tập sức mạnh đơn thuần làm cơ sở. Bởi vì trong các động tác nhanh thời gian tác động lên hệ thần kinh cơ ngắn. Trong rèn luyện sức mạnh tốc độ cần lựa chọn lượng đối kháng lớn nhất. Nhưng vẫn không làm rối loạn cấu trúc bài tập thi đấu, có như vậy mới tác động, đồng thời kĩ thuật và tố chất thể lực. Trong nội dung nhảy xa toàn bộ tính đa dạng của các mối liên hệ dưới hình thức và nội dung, động tác đặc trưng cho các bài tập sức mạnh, tốc độ được biểu hiện rõ rệt nhất, khi chạy đà, vận động viên nhảy xa sau một thời gian ngắn phải phát huy được động tác chạy nhịp điệu động tác cao nhất, sau đó trong thời gian ngắn khoảng 0,11 - 0,13 giây vừa không giảm tốc độ chạy vừa thay đổi phương hướng chuyển động lên trên bằng cách khắc phục và phát triển lực lớn khi giậm nhảy. Việc hoàn thiện các tố chất sức mạnh tốc độ cần phù hợp với biến đổi của động tác và đặc tính hoạt động thần kinh cơ khi giậm nhảy. Để đạt thành tích cao trong kỹ thuật nhảy xa, điều cơ bản là cần kéo dài giai đoạn bay, bằng cách chạy đà tốc độ, giậm nhảy tích cực. Quá trình bay, trọng tâm cơ thể chuyển động trong không gian theo một quỹ đạo nhất định bởi các yếu tố: tốc độ bay ban đầu, góc độ bay, lực cản không khí và lực hút trái đất. Về lý tuyết thành tích nhảy xa của người tập được tính theo công thức: S = S: Là độ bay xa (thành tích) : Tốc độ bay ban đầu : Góc độ bay g: Gia tốc rơi tự do II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU Thực trạng Hiện nay công tác giáo dục thể chất trong các nhà trường ngày càng được chú trọng và quan tâm, thể hiện qua việc thường xuyên đổi mới, mua sắm, bổ sung các trang thiết bị dạy và học, nâng cao chất lượng về cơ sở vật chất, sân bãi, dụng cụ trong quá trình học tập và luyện tập thể thao trong trường học. Đa phần các trường trong huyện đều có sân bãi dành cho hoạt động học tập và hoạt động thể thao khang trang, rộng rãi, đúng với tiêu chí của môn học; dụng cụ học tập được ban giám hiệu nhà trường quan tâm, mua sắm, bổ sung đầy đủ ngay từ đầu năm học. Từ những sự quan tâm đáng kể như vậy, đang và đã phục vụ tốt cho công tác giảng dạy, học tập bộ môn thể dục nói chung và môn nhảy xa nói riêng. Tuy nhiên qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy học sinh hiện nay các em lười vận động, hạn chế về sức khỏe và thể lực dẫn đến thành tích trong môn học thể dục không cao. Điều này xuất phát từ nhiều yếu tố, yếu tố về gia đình bản thân các em không phải tham gia lao động chân tay quá nhiều, chỉ tập trung vào học văn hóa, không tham gia vào các câu lạc bộ thể thao, không tự luyện tập ở nhà. Đến trường thời gian học tập môn thể dục có 2 tiết/tuần, nội dung buổi học mà quá đơn điệu, nghèo nàn về nội dung thì cũng làm cho các em chán tập, không hứng thú để tích cực học tập và rèn luyện. Kết quả thực trạng Trước khi đi vào nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi đã tiến hành kiểm tra thành tích nhảy xa của các em lớp 9, thành tích cụ thể như sau: Bảng 1.1: Kết quả nhảy xa lớp 9A TT Học sinh Nam Thành tích (m) TT Học sinh nữ Thành tích (m) 1 Trịnh Bá An 3,15 1 Nguyễn Thị Ngọc Anh 3,05 2 Trịnh Văn Đức 4,20 2 Vũ Thị Kim Anh 2,20 3 Trịnh Văn Hiếu 3,80 3 Trịnh Thị Bình 2,25 4 Lê Văn Hiệp 2,95 4 Trịnh Thị Thùy Dương 2,20 5 Trịnh Xuân Huy 3,85 5 Nguyễn Thị Hường 2,30 6 Trịnh Gia Hùng 3,00 6 Nguyễn Thị Liên 3,00 7 Trịnh Mạnh Hùng 2,90 7 Trịnh Thị Hiền Lương 2,10 8 Nguyễn Hải Nam 3,30 8 Nguyễn Hồng Nhung 2,25 9 Trịnh Vũ Thái Sơn 3,15 9 Trịnh Hồng Nhung 2,30 10 Trịnh Hồng Thành 3,60 10 Trịnh Thị Oanh 2,40 11 Trịnh Văn Thái 3,20 11 Lê Hương Quỳnh 2,40 12 Trịnh Hữu Trường 3,50 12 Vũ Thị Trang 2,35 13 Lê Lưu Tùng 3,60 13 Trần Thị Ánh Tuyết 2,50 = 3,4 = 2,4 Bảng 1.2: Kết quả nhảy xa lớp 9B TT Học sinh Nam Thành tích (m) TT Học sinh nữ Thành tích (m) 1 Đoàn Trọng Tú Anh 3,00 1 Lưu Thị Hồng Anh 2,75 2 Phạm Tiến Dũng 3,85 2 Lưu Thị Mai Anh 2,30 3 Trịnh Huy Đạt 4,25 3 Nguyễn Khánh Diệu 2,90 4 Trịnh Hữu Đức 3,90 4 Nguyễn Thị Hiền 3,05 5 Đàm Quang Hiếu 3,75 5 Trịnh Ánh Hồng 2,20 6 Trịnh Hữu Linh 3,10 6 Trịnh Thu Hường 2,25 7 Phạm Văn Lương 3,05 7 Nguyễn Thị Nga 2,10 8 Nguyễn Ngọc Sơn 3,20 8 Nguyễn Huyền My 2,30 9 Nguyễn Văn Tài 2,95 9 Lê Thị Trang 2,10 10 Trịnh Đức Tuấn 2,95 10 Trương Ngọc Trang 2,20 11 Trương Văn Tuấn 3,05 11 Lê Thị Mai Phương 2,60 12 Lê Hồng Việt 3,90 12 Lê Thị Vân 2,25 13 Trịnh Hữu Việt 2,95 13 Nguyễn Hoàng Vân 2,35 = 3,38 = 2,41 Bảng 1.3: Thống kê các chỉ số Nội dung Nhóm Kết quả kiểm tra nhảy xa kiểu ngồi Ttính Tbảng P (m) C Lớp 9A (Nhóm đối chứng) 2,90 0,62 21,4% -0,34 2,048 5% Lớp 9B (Nhóm thực nghiệm) 2,89 0,63 21,8% -0,34 2,048 5% Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy: Thành tích bật xa của 2 nhóm không có sự khác biệt ở ngưỡng xác suất P = 5% vì T (tính) = -0,34 < T (bảng) = 2,048. Đồng thời qua bảng kết quả ở trên ta thấy ở cả hai lớp hệ số biến sai của hai nhóm không lệch nhau nhiều điều này chứng tỏ một điều trình độ thể lực và thành tích của hai lớp là ngang nhau. III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Lựa chọn các bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ ở nội dung nhảy xa kiểu ngồi cho học sinh khối 9 trong trường tôi. Việc nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập của học sinh là trách nhiệm và nghĩa vụ của người đứng lớp. Để có được chất lượng trong giảng dạy bộ môn thể dục nói chung và nội dung nhảy xa nói riêng ngoài việc có cơ sở vật chất đầy đủ, sân bãi khang trang thoáng mát, thì yếu tố người giáo viên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng được hứng thú, tính tích cực tự giác của học sinh trong học tập cũng như rèn luyện. Muốn có được điều đó, người giáo viên phải không ngừng nổ lực phấn đấu học hỏi, trau dồi chuyên môn, tìm tòi, sáng tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy. Qua thực tế trong công tác giảng dạy và bản thân nghiên cứu, tìm tòi các bài tập phù hợp với nội dung phát triển sức mạnh tốc độ trong nhảy xa, tôi tổng hợp được 13 bài tập đó là: 1, Bật lò cò 20m 2, Chạy 30m tốc độ cao 7, Chạy đạp sau 30m 3, Chạy 60m xuất phát cao 8, Chạy 30m xuất phát cao 4, Chạy nâng cao đùi nhanh 10s 9, Bật xa tại chỗ 5, Bật 3 bước không đà 10, Bật hố cát 2 gối thu chạm ngực 6, Chạy gót chạm mông 11, Chạy 60m xuất phát thấp 12, Chạy nâng cao đùi với tần số nhanh sau đó chạy tốc độ cao 15 – 20m 13, Ngồi xuống bật thẳng lên cao 5 lần sau đó chạy tốc độ cao 10m – 15m Tuy nhiên để tìm ra các bài tập thường xuyên được sử dụng trong thực tiễn công tác giảng dạy để phát triển tố chất sức mạnh tốc độ, tôi tiến hành soạn thảo thành phiếu và tiến hành phỏng vấn tham khảo các ý kiến của các giáo viên, huấn luyện viên trực tiếp đứng lớp và huấn luyện. Kết quả phỏng vấn được biểu hiện ở bảng sau: Bảng 2: Kết quả phỏng vấn bằng phiếu về các bài tập thường xuyên sử dụng cho việc phát triển tố chất sức mạnh tốc độ trong nhảy xa. TT Tên bài tập Số phiếu phát ra Số phiếu thu vào Số phiếu đồng ý Tỷ lệ % 1 Bật lò cò 20m 20 20 19 95% 2 Chạy 30m tốc độ cao 20 20 20 100% 3 Chạy 60m xuất phát cao 20 20 18 90% 4 Chạy nâng cao đùi nhanh 10s 20 20 19 95% 5 Bật 3 bước
Tài liệu đính kèm:
- skkn_lua_chon_va_ap_dung_mot_so_bai_tap_phat_trien_suc_manh.doc