SKKN Kinh nghiệm sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả giảng dạy qua bài học Lịch sử lớp 10 THPT

SKKN Kinh nghiệm sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả giảng dạy qua bài học Lịch sử lớp 10 THPT

Từ thời cổ đại lịch sử rất được coi trọng, các sử gia Hy Lạp - La Mã đã xem lịch sử là “ cô giáo của cuộc sống”.Ở thế kỉ XIX Các - Mác viết: “Nếu cho phép tôi chỉ được chọn một môn học thì tôi chọn môn lịch sử”. Ý kiến của Các- Mác khẳng định rõ hơn giá trị và sức mạnh kì diệu của môn lịch sử. Bởi lẽ, những tri thức lịch sử không chỉ thể hiện nền văn hoá của mỗi dân tộc mà là công cụ để giáo dục tình cảm, đạo đức hình thành thế giới quan, nhân sinh quan từ đó tạo nên những phẩm chất của con người Việt Nam. Xuất phát từ vai trò quan trọng của môn lịch sử như vậy đòi hỏi người dạy và người học luôn phải đổi mới phương pháp dạy và học.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định: “giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn.Hiệu quả giáo dục đào tạo thật sự là quốc sách hàng đầu, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân là yêu cầu bức thiết của toàn xã hội, yêu cầu của hội nhập quốc tế trong kỉ nguyên toàn cầu hóa”.

Vậy làm thế nào để dạy và học đạt được kết quả tốt nhất, đó là mong muốn của tất cả giáo viên chúng ta. Để đạt hiệu quả cao trong giờ dạy học giáo viên cần làm tốt tất cả các khâu, tổ chức linh hoạt các hoạt động học tập cho học sinh từ cách ổn định lớp, đến cách vào bài rồi cách triển khai bài học đến khâu cuối củng cố bài và giao bài tập về nhà. Giáo viên làm tốt các khâu đó sẽ giúp học sinh tích cực chủ động lĩnh hội kiến thức và say mê môn học.

Dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông là một môn học quan trọng, dạy học lịch sử không chỉ giúp các em lĩnh hội kiến thức mà từ đó góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm, khơi dậy lòng yêu quê hương đất nước, ý thức giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.Trong suốt năm học qua, bằng nhiệt huyết giảng dạy của mình tôi không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, tìm ra cách thức để nâng cao hiệu quả giảng dạy ở mỗi tiết dạy lịch sử. Từ thực tiễn giảng dạy và qua những tiết thao giảng tôi đã nhận thấy sử dụng phiếu học tập trong một số tiết học thực sự hiệu quả. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm :‘‘Kinh nghiệm sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả giảng dạy qua bài học lịch sử lớp 10 THPT”.Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi rất mong được sự góp ý của bạn bè và đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.

 

doc 31 trang thuychi01 17894
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả giảng dạy qua bài học Lịch sử lớp 10 THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 Nội dung 	 Trang
1. Mở đầu	.............	...........1
1.1. Lí do chọn đề tài 	...........1
1.2. Mục đích nghiên cứu 	...........1
1.3. Đối tượng nghiên cứu 	...........2
1.4. Phương pháp nghiên cứu 	...........2
1.5. Những điểm mới của SKKN 	...........2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 	...........3
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN 	...........3
2.2.1. Phương tiện dạy học	...........3
2.1.2. Phiếu học tập 	...........3
a. Khái niệm 	...........3
b. Phân loại các hình thức của phiếu học tập	...........4
c. Vai trò của phiếu học tập	...........4
d. Các bước thiết kế phiếu học tập 	...........4
e. Sử dụng phiếu học tập 	...........4
2.2. Thực trạng của vấn đề 	...........5
2.3 Các giải pháp thực hiện 	...........6
2.3.1. Thiết kế phiếu học tập trong giảng dạy 	...........6
a. Phần dẫn của phiếu học tập	...........6
b. Phần hoạt động	...........6
c. Phần quy định thời gian 	...........6
d. Phần đáp án 	...........7
2.3.2. Kinh nghiệm thiết kế phiếu học tập	...........7
2.3.3. Vận dụng phiếu học tập trong tiết giảng	...........7
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 	.........18
3. Kết luận và kiến nghị 	.........19
3.1. Kết luận	.........19
3.2. Một số kiến nghị	.........19 
* Tài liệu tham khảo 
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Từ thời cổ đại lịch sử rất được coi trọng, các sử gia Hy Lạp - La Mã đã xem lịch sử là “ cô giáo của cuộc sống”.Ở thế kỉ XIX Các - Mác viết: “Nếu cho phép tôi chỉ được chọn một môn học thì tôi chọn môn lịch sử”. Ý kiến của Các- Mác khẳng định rõ hơn giá trị và sức mạnh kì diệu của môn lịch sử. Bởi lẽ, những tri thức lịch sử không chỉ thể hiện nền văn hoá của mỗi dân tộc mà là công cụ để giáo dục tình cảm, đạo đức hình thành thế giới quan, nhân sinh quan từ đó tạo nên những phẩm chất của con người Việt Nam. Xuất phát từ vai trò quan trọng của môn lịch sử như vậy đòi hỏi người dạy và người học luôn phải đổi mới phương pháp dạy và học.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định: “giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn....Hiệu quả giáo dục đào tạo thật sự là quốc sách hàng đầu, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân là yêu cầu bức thiết của toàn xã hội, yêu cầu của hội nhập quốc tế trong kỉ nguyên toàn cầu hóa”.
Vậy làm thế nào để dạy và học đạt được kết quả tốt nhất, đó là mong muốn của tất cả giáo viên chúng ta. Để đạt hiệu quả cao trong giờ dạy học giáo viên cần làm tốt tất cả các khâu, tổ chức linh hoạt các hoạt động học tập cho học sinh từ cách ổn định lớp, đến cách vào bài rồi cách triển khai bài học đến khâu cuối củng cố bài và giao bài tập về nhà. Giáo viên làm tốt các khâu đó sẽ giúp học sinh tích cực chủ động lĩnh hội kiến thức và say mê môn học.
Dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông là một môn học quan trọng, dạy học lịch sử không chỉ giúp các em lĩnh hội kiến thức mà từ đó góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm, khơi dậy lòng yêu quê hương đất nước, ý thức giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.Trong suốt năm học qua, bằng nhiệt huyết giảng dạy của mình tôi không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, tìm ra cách thức để nâng cao hiệu quả giảng dạy ở mỗi tiết dạy lịch sử. Từ thực tiễn giảng dạy và qua những tiết thao giảng tôi đã nhận thấy sử dụng phiếu học tập trong một số tiết học thực sự hiệu quả. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm :‘‘Kinh nghiệm sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả giảng dạy qua bài học lịch sử lớp 10 THPT”.Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi rất mong được sự góp ý của bạn bè và đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
	Nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm này và vận dụng kiến thức giảng dạy vào bài 19:‘‘Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X-XV’’ nhằm giúp các em học sinh khối 10 hình thành được khái niệm cơ bản của phiếu học tập, cách sử dụng phiếu học tập và hiệu quả của phiếu học tập trong quá trình học tập nhằm nâng cao hiệu quả của bài học. 
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
	 Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi vận dụng trong quá trình giảng dạy môn lịch sử lớp 10 của trường THPT Vĩnh Lộc. Tôi vận dụng vào bài học cụ thể là bài 19:‘‘Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X-XV’’.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
 Trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau :
 + Nghiên cứu tư liệu để xây dựng cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu.
 + Khảo sát thực tiễn qua thông tin trên mạng và qua thực trạng học môn lịch sử của trường THPT mà tôi đang dạy để có cái nhìn khái quát về thực trạng dạy học môn lịch sử và thực trạng của việc giáo dục truyền thống yêu nước của học sinh hiện nay.
 + Vận dụng kiến thức soạn một tiết dạy cụ thể, đó là bài 19:‘‘Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X-XV’’.
5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SKKN
- So với SKKN mà tôi làm năm trước thì năm nay tôi đã bổ sung một số giải pháp để giải quyết vấn đề như: cách thiết kế phiếu học tập, thiết kế phiếu học tập trong một tiết học cụ thể.
- Thiết kế lại cấu trúc của bài học: ghép giữa các mục để sử dụng phiếu học tập đạt hiệu quả cao.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ :
 2.1.1. Phương tiện dạy học:
	Phương tiện dạy học bao gồm những thiết bị có khả năng chứa đựng hoặc truyền tải những thông tin về nội dung dạy học và sự điều khiển quá trình dạy học. Đó là: mô hình, hình vẽ, sách giáo khoa, máy vi tính, máy chiếu... Theo Phạm Ngọc Quang, “ Phương tiện dạy học bao gồm mọi thiết bị kĩ thuật từ đơn giản đến phức tạp được dùng trong quá trình dạy học để làm dễ dàng cho sự truyền đạt và tiếp thu kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo”. Phương tiện dạy học giữ vai trò quan trọng góp phần hướng dẫn hoạt động nhận thức của học sinh, giúp học sinh tự chiếm lĩnh tri thức, kích thích hứng thú học tập của học sinh, góp phần phát triển trí tuệ và giáo dục nhân cách cho học sinh. V.P. Golov cho rằng: “Phương tiện dạy học là một trong những điều kiện quan trọng để thực hiện nội dung giáo dục và phát triển học sinh trong quá trình dạy học”. Những tri thức học sinh lĩnh hội được hình thành thông qua bằng con đường trực quan, ngoài ra không có con đường nào khác. Trực quan làm cho quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh trở nên dễ dàng, tự giác, có ý thức và vững chắc hơn, tạo ra hứng thú học tập của học sinh, là phương tiện tốt nhất để giáo viên gần gũi với học sinh và là phương tiện quan trọng để phát triển tư duy cho học sinh. V.L Lênin nhận xét: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ đó trở về thực tiễn- đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực khách quan. 
	Phương tiện dạy học giúp học sinh dễ hiểu bài, hiểu sâu sắc và nhớ bài lâu hơn. Phương tiện dạy học tạo điều kiện thuận lợi nhất giúp cụ thể hóa những cái quá trừu tượng, đơn giản hóa những máy móc và thiết bị quá phức tạp. 
	 2.1.2. Phiếu học tập:
	 a. Khái niệm:
	 Theo nghĩa của từ điển “Phiếu” là tờ giấy rời có cỡ nhất định chuyên dùng để ghi chép những nội dung cụ thể nào đó hoặc phiếu là tờ giấy ghi nhận một quyền lợi nào đó cho người sử dụng. Ngoài ra, phiếu còn là mảnh giấy ghi tên người mình tín nhiệm khi bầu cử hoặc ý kiến, biểu quyết tự tay mình bỏ vào hòm phiếu.
	 Theo PGS. TS. Nguyễn Đức Thành “Phiếu học tập” là những tờ giấy rời, in sẵn những công tác độc lập hay làm theo nhóm nhỏ, được phát để học sinh hoàn thành trong một thời gian ngắn của tiết học. Trong mỗi phiếu học tập có ghi rõ một vài nhiệm vụ nhận thức nhằm hướng tới hình thành kiến thức, kĩ năng hay rèn luyện thao tác tư duy cho học sinh.
	 Theo PGS. TS. Trịnh Văn Biểu “Phiếu học tập” là bản ghi các yêu cầu hay các câu hỏi của giáo viên mà học sinh phải thực hiện trong giờ học trên lớp.
	 Theo các ý kiến trên: Phiếu học tập là những tờ giấy rời có nội dung hướng dẫn yêu cầu học sinh làm việc trong một thời gian ngắn tại lớp học hoặc được làm ở nhà trước mỗi bài học, có ghi rõ một vài nhiệm vụ nhận thức nhằm hình thành kiến thức, kĩ năng tư duy.
	 b. Phân loại các hình thức của phiếu học tập:
	+ Phiếu học tập dùng cho hình thành kiến thức mới: sử dụng trong việc hình thành kiến thức mới cho học sinh. Thông qua việc dẫn dắt học sinh hoàn thành nội dung của phiếu học tập, học sinh sẽ lĩnh hội được lượng kiến thức nhất định. Dạng này cần có sự hợp tác giữa giáo viên và học sinh.
	+ Phiếu học tập dùng để củng cố, hoàn thiện kiến thức: sử dụng khi học sinh học xong từng phần, từng bài, từng chương để giúp học sinh nắm vững kiến thức đã học, đảm bảo tính hệ thống liên tục và logich của kiến thức trong chương trình.	
 c. Vai trò của phiếu học tập:
 - Cung cấp thông tin và sự kiện: phiếu học tập chứa đựng thông tin, dữ liệu hoặc sự kiện hoặc dùng làm cơ sở cho một hoạt động nhận thức nào đó.
 - Công cụ hoạt động và giao tiếp: phiếu học tập chứa đựng các câu hỏi, bài tập, yêu cầu hoạt động, những vấn đề để yêu cầu học sinh giải quyết, hoặc thực hiện kèm theo những hướng dẫn, gợi ý cách làm.
 d. Các bước thiết kế phiếu học tập:
 - Bước 1: Xác định trường hợp cụ thể của việc sử dụng phiếu học tập trong bài học. 
 - Bước 2: Xác định nội dung của phiếu học tập, cách trình bày nội dung của phiếu học tập và hình thức thể hiện trong phiếu học tập.
Nội dung của phiếu học tập được xác định dựa vào một số cơ sở sau: mục tiêu của bài học, kiến thức cơ bản, phân bố thời gian, phương pháp và phương tiện dạy học, môi trường lớp học để xác định nội dung, khối lượng công việc trong phiếu học tập cho phù hợp. 
 - Bước 3: Viết phiếu học tập:
 Các thông tin, yêu cầu... trên phiếu học tập phải được ghi rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu. Phần dành cho học sinh điền các thông tin phải có khoảng trống thích hợp. Cách trình bày phiếu phải đảm bảo tính khoa học, thẩm mĩ. 
 e. Sử dụng phiếu học tập: 
Phiếu học tập là công cụ để giáo viên tiến hành tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, đồng thời là cơ sở để học sinh tiến hành các hoạt động một cách tích cực, chủ động. Việc sử dụng phiếu học tập nên được sử dụng trong dạy kiến thức mới, ôn tập, kiểm tra... và thường được diễn ra theo quy trình sau: 
- Giáo viên nêu nhiệm vụ học tập, giao phiếu học tập cho học sinh, tùy theo hình thức tổ chức dạy học mà giáo viên giao cho mỗi học sinh một phiếu hay mỗi nhóm một phiếu. 
- Tiến hành quan sát, hướng dẫn và giám sát kết quả hoạt động của học sinh. 
- Tổ chức cho một số cá nhân hoặc đại diện nhóm trình bày kết quả làm việc với phiếu học tập. Hướng dẫn toàn lớp trao đổi, bổ sung hoàn thành phiếu học tập. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh trao đổi chéo nhau để sửa chữa, đánh giá kết quả làm việc với phiếu học tập của nhau trên cơ sở các kết luận của giáo viên. 
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Môn lịch sử ở nhà trường phổ thông có tác dụng to lớn đối với việc giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử dân tộc, truyền thống dân tộc, hình thành nên thế giới quan khoa học... Song do đặc thù của bộ môn lịch sử, do một số giáo viên còn chưa thực sự hiểu sâu về phương pháp dạy học và kiến thức còn lệ thuộc vào sách giáo khoa, tức là chưa làm chủ được kiến thức dẫn đến giờ học khô khan, nhàm chán và nặng nề. Tình trạng này đã làm mất đi tính hấp dẫn của môn lịch sử. Hơn nữa, do tư tưởng coi môn sử là “môn phụ”, học sinh “học gì thi nấy” nên nhiều học sinh quay lưng với môn sử. Quan niệm sai lầm cho rằng học lịch sử chỉ cần trí nhớ không phải tư duy, động não, không có bài tập thực hành đã ảnh hưởng đến việc đánh giá, tổ chức phương pháp dạy học.
Trong những năm gần đây Bộ giáo dục có nhiều thay đổi về kì thi THPT quốc gia, nếu các năm 2015, 2016 học sinh được lựa chọn môn thi để xét tốt nghiệp thì đa phần học sinh không chọn môn lịch sử vì khó học, khó đạt điểm cao. Còn trong vài năm gần đây khi Bộ đưa môn sử vào tổ hợp xét tốt nghiệp, môn sử thuộc nhóm các môn khoa học xã hội gồm: sử - địa – gdcd, so với tổ hợp các môn khoa học tự nhiên thì tổ hợp này vẫn có nhiều học sinh lựa chọn. Nhưng thực trạng đáng buồn là không phải các em yêu thích môn sử hơn mà đa phần những em lựa chọn môn sử vì nó nằm trong tổ hợp các môn khoa học xã hội và có môn địa và giáo dục công dân có thể cứu cánh được. Hoặc có một bộ phận các em học sinh vì không biết gì cả nên mới chọn môn lịch sử. Với cách thi trắc nghiệm như hiện nay càng làm cho một bộ phận các em nhác học ỷ lại với việc may rủi, xác định tô qua điểm liệt là đạt yêu cầu. 
Theo thống kê của Bộ giáo dục ở kì thi THPT quốc gia năm 2018 ở bộ môn lịch sử cả nước có 11 học sinh đạt điểm 10. Tuy nhiên, về phổ điểm chung của môn được xếp cuối danh sách với điểm trung bình môn cả nước không quá 4 điểm. Nếu năm trước nữa môn này đạt 4,6 điểm, năm nay chỉ đạt 3,79 điểm.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, môn lịch sử có đông học sinh đăng kí thi nhất ở tổ hợp bài Khoa học Xã hội, với 27.941 em. Kết quả, chỉ 19,1% bài thi đạt từ 5 điểm trở lên, 80,9 % bài thi có điểm dưới trung bình.
Tại Đà Nẵng, 90% thí sinh đạt dưới 5 điểm môn lịch sử trong kì thi THPT quốc gia 2018.
Tại Tỉnh Thanh Hóa trong kì thi THPT quốc gia 2018 có 39 bài thi bị điểm liệt môn lịch sử.
Những con số trên cho thấy học sinh ngày càng xem nhẹ việc học tập môn lịch sử.
 	 Thực tiễn tại nơi tôi công tác và trên địa bàn của huyện thì mức độ chênh lệch của học sinh chọn khối cũng thể hiện khá rõ, đa số học sinh khi được hỏi về việc chọn ngành, chọn khối thì các em đều chọn các ngành khối A, vì vậy hiện nay những lớp học khối C không còn nữa, thay vào đó là các lớp thuộc ban khoa học tự nhiên. Từ thực trạng trên thời gian các em giành cho học tập môn sử ngày càng ít đi thậm chí là không. Tuy nhiên, không phải vì lẽ đó mà giáo viên quên đi thiên chức của mình là giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
Trong quá trình được phân công giảng dạy môn lịch sử lớp 10 tôi nhận thấy đây là một chương trình khó, nội dung nhiều bài chưa tương xứng với số tiết trong phân phối chương trình. Có những bài, những phần kiến thức khó giáo viên phải mất nhiều thời gian để học sinh ghi nhớ. Đặc biệt, trong chương trình không có tiết bài tập để giáo viên hướng dẫn làm bài tập và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Hiện nay, trong các tiết dạy giáo viên vẫn còn trung thành với kiến thức của sách giáo khoa, chưa mạnh dạn kết cấu lại bài học, có những bài mục nào cũng dạy về hoàn cảnh, nguyên nhân, kết quả, ý nghĩa của một sự kiện nào đó. Việc dạy đi dạy lại theo kiến thức của sách giáo khoa dễ làm cho học sinh có tâm lí chán nản, ngại nghe, ngại học. Bởi vậy, thông qua quá trình giảng dạy trên lớp, đúc rút kinh nghiệm qua các tiết thao giảng đặc biệt từ bạn bè đồng nghiệp, tôi đã mạnh dạn thay đổi kết cấu ở một số bài học để phù hợp với đối tượng học sinh đồng thời để bài dạy hấp dẫn hơn, phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Đồng thời, việc sử dụng phiếu học tập trong một số tiết học đã thực sự đạt hiệu quả góp phần nâng cao ý thức học tập, rèn luyện, tư duy của các em học sinh. Từ thực tiễn giảng dạy, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm ‘‘Kinh nghiệm sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả giảng dạy qua bài học lịch sử lớp 10 THPT”. Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi mong muốn sẽ giúp đỡ các em được phần nào trong việc hoạt động nhóm, nâng cao khả năng lĩnh hội kiến thức để làm tiền đề cho việc học tập môn lịch sử ở những lớp trên.
 2.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN :
 2.3.1. Thiết kế phiếu học tập trong giảng dạy:
 a. Phần dẫn của phiếu học tập:
	Phần dẫn của phiếu học tập là các chỉ dẫn của giáo viên quy định kiểu hoạt động, nội dung hoạt động hay nguồn thông tin.
Ví dụ: Dựa vào kiến thức của sách giáo khoa...trang...em hãy hoàn thành những nội dung ghi trong phiếu học tập về....
 b. Phần hoạt động:
	Là phần chỉ những công việc, thao tác mà học sinh cần thực hiện, có thể là một hoặc nhiều hoạt động.
Ví dụ: Dựa vào kiến thức của sách giáo khoa...trang...em hãy hoàn thành những nội dung ghi trong phiếu học tập về....
- Các thao tác, công việc học sinh cần thực hiện là:
+ Đọc thông tin mục....SGK...trang....
+ Hoàn thành nội dung của phiếu học tập.
 c. Phần quy định thời gian:
	Phiếu học tập cần quy định thời gian hoàn thành bao lâu là căn cứ vào trình độ HS, thời gian của tiết học. Các công việc, hoạt động phải được thực hiện trong khoảng thời gian nhất định, tùy khối công việc mà giáo viên quy định thời gian cho học sinh hoàn thành có thể là 5 phút,10 phút, 15 phút hoặc có thể kéo dài hơn...
 d. Phần đáp án:
	Phần đáp án thường tách biệt với các phần trên và được giáo viên dùng để chỉnh sửa, bổ sung cho học sinh.
 2.3.2. Kinh nghiệm thiết kế phiếu học tập:	
	Khi thiết kế phiếu học tập trong quá trình giảng dạy giáo viên cần chú ý:
- Nội dung phù hợp, ngắn gọn, trọng tâm. Giáo viên cần nắm năng lực của học sinh để đưa ra phiếu học tập vừa sức.
- Từ ngữ ghi trong phiếu học tập phải trong sáng, dễ hiểu.
- Nên thiết kế phiếu học tập kết hợp cả kênh chữ và kênh hình để kích thích hứng thú học tập của học sinh.
- Số lượng phiếu học tập trong một tiết học vừa phải, không nhiều quá gây tốn thời gian và không cần thiết nhưng cũng không quá ít.
- Số câu hỏi không nên quá nhiều hay yêu cầu không nên quá dài.
- Hình thức đẹp và khoa học, nên tách phiếu học tập ra từng phần rõ ràng để học sinh dễ theo dõi, kết hợp với làm việc nhóm.
- Thông tin, dữ liệu cần được chủ động tích lũy, cập nhật thường xuyên.
 2.3.3. Vận dụng phiếu học tập trong bài giảng:
Bài 19:‘‘Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X-XV’’.
(Tiết ppct: 25).
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Về kiến thức:
 Sau khi học xong bài học yêu cầu học sinh nắm và hiểu được:
- Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, nhân dân Đại Việt phải liên tiếp tổ chức những 
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
- Với tinh thần dũng cảm, truyền thống yêu nước ngày càng sâu đậm, nhân dân ta đã chủ động sáng tạo, vượt qua mọi thách thức khó khăn đánh lại các cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù.
- Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vĩ đại nổi lên những trận quyết chiến, chiến lược mà còn xuất hiện một loạt các nhà chỉ huy quân sự tài năng như: Lê Hoàn, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi.
2. Về tư tưởng:	
- Giáo dục lòng yêu nước, ý thức bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
- Bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.
- Bồi dưỡng niềm tự hào dân tộc và lòng biết ơn đối với các thế hệ tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu quên mình vì nền độc lập của Tổ quốc.
3. Về kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ trong học tập.
- Bồi dưỡng kĩ năng phân tích, tổng hợp.
- Kĩ năng lập bảng thống kê để rút ra nhận xét và đánh giá.
4. Định hướng phát triển năng lực
- Năng lực chung: Tự học, hợp tác, giao tiếp, giải quyết vấn đề.
- Năng lực chuyên biệt: tái hiện sự kiện; thực hành khai thác và sử dụng kênh hình có liên quan đến bài học; liên hệ, so sánh, đối chiếu, sâu chuỗi các sự kiện lịch sử...
II. THIẾT BỊ VÀ TÀI LIỆU DẠY HỌC:
 Thiết bị: Tranh ảnh, lược đồ các cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC
A.HOẠT ĐỘNG TẠO TÌNH HUỐNG HỌC TẬP/KHỞI ĐỘNG/DẪN DẮT/NÊU VẤN ĐỀ.
1. Mục tiêu:
Sau khi học xong bài học yêu cầu học sinh nắm và hiểu được:
- Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, nhân dân Đại Việt phải liên tiếp tổ chức những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
- Với tinh thần dũng cảm, truyền thống yêu nước ngày càng sâu đậm, nhân dân ta đã chủ động sáng tạo, vượt qua mọi thách thức khó khăn đánh lại các cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù.
- Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vĩ đại nổi lên những trận quyết chiến, chiến lược mà còn xuất hiện một loạt các nhà chỉ huy quân sự tài năng như: Lê Hoàn, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi.
2. Phương thức:
- Giáo viên sử dụng phương pháp ghép mục để giảng dạy.
- Yêu cầu HS quan sát lược đồ tóm tắt về những chiến thắng tiêu biểu của quân dân nhà Trần. Lập bảng so sánh giữa các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời Lí-Trần với cuộc 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_su_dung_phieu_hoc_tap_de_nang_cao_hieu_qua.doc