SKKN Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS

SKKN Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS

Ngữ văn là một môn học kết tinh nhiều tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nó gắn bó mật thiết đối với đời sống của mỗi con người. Từ thuở lọt lòng, khi còn nằm trong vòng tay âu yếm ta đã được tiếp cận và bồi dưỡng văn chương qua những câu chuyện cổ tích bằng giọng kể đầm ấm của bà, qua lời hát ru ngọt ngào sâu lắng của mẹ. Nó như là “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực” tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến đời sống tâm hồn tư tưởng, tình cảm cảm xúc của con người.

Hơn bất cứ hoạt động ý thức tinh thần nào, văn học nghệ thuật có khả năng đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu và vô tận của đời sống tâm linh, số phận và tính cách con người. Văn học chân chính giúp con người sống sâu sắc hơn với nhân vật, với tác giả, từ đó trang bị cho chúng ta vốn sống và hướng tới đỉnh cao của Chân- Thiện -Mĩ.

Có thể nói, Văn học có tầm quan trọng to lớn đối với mỗi con người cũng như đối với sự phát triển của đất nước. Song trong thực tế hiện nay một số phụ huynh và HS có xu hướng xem nhẹ những môn học xã hội nói chung, môn Ngữ văn nói riêng. Một số người còn quan niệm:“văn chương hạ giới rẻ như bèo” hoặc Văn học không cần thiết đối với đời sống nên đã định hướng cho con em mình say mê những môn học mang xu hướng thời cuộc như Toán, Anh dẫn đến tình trạng HS không yêu thích môn văn và ngại học Văn. Trong giờ học các em luôn có những biểu hiện tiêu cực như ít phát biểu ý kiến, kĩ năng đọc bài kém thậm chí còn “vô cảm” trước những tác phẩm Văn học; làm bài thì lủng củng, thiếu mạch lạc và hành văn không mang tính văn chương. Dẫn đến chất lượng học Văn có chiều hướng giảm sút nghiêm trọng. Hiện thực ấy đã khiến cho bao GV tâm huyết với nghề phải trăn trở: Làm sao để giúp các em có hứng thú trong giờ học Văn? Làm sao để các em mong chờ, yêu thích khi học môn Văn? Làm sao để chất lượng giờ học Văn được nâng cao và có hiệu quả?

Với những yêu cầu trên.Tôi luôn ý thức là giáo viên trong giai đoạn hiện nay phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì mới đáp ứng được yêu cầu giảng dạy đó chính là đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học.

Qua những năm trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở , và được tham gia lớp tập huấn các chuyên đề triển khai dạy và học tích cực một số phương pháp và kỹ thuật dạy học ; dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Bằng những kinh nghiệm ít ỏi tích lũy tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: “Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS ” ở phạm vi ngữ văn THCS, áp dụng các kỹ thuật dạy học cụ thể phù hợp vào từng bài để đạt hiệu quả tốt trong học tập môn ngữ văn.

 

doc 17 trang thuychi01 17894
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài:
Ngữ văn là một môn học kết tinh nhiều tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nó gắn bó mật thiết đối với đời sống của mỗi con người. Từ thuở lọt lòng, khi còn nằm trong vòng tay âu yếm ta đã được tiếp cận và bồi dưỡng văn chương qua những câu chuyện cổ tích bằng giọng kể đầm ấm của bà, qua lời hát ru ngọt ngào sâu lắng của mẹ. Nó như là “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực” tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến đời sống tâm hồn tư tưởng, tình cảm cảm xúc của con người.
Hơn bất cứ hoạt động ý thức tinh thần nào, văn học nghệ thuật có khả năng đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu và vô tận của đời sống tâm linh, số phận và tính cách con người. Văn học chân chính giúp con người sống sâu sắc hơn với nhân vật, với tác giả, từ đó trang bị cho chúng ta vốn sống và hướng tới đỉnh cao của Chân- Thiện -Mĩ.
Có thể nói, Văn học có tầm quan trọng to lớn đối với mỗi con người cũng như đối với sự phát triển của đất nước. Song trong thực tế hiện nay một số phụ huynh và HS có xu hướng xem nhẹ những môn học xã hội nói chung, môn Ngữ văn nói riêng. Một số người còn quan niệm:“văn chương hạ giới rẻ như bèo” hoặc Văn học không cần thiết đối với đời sống nên đã định hướng cho con em mình say mê những môn học mang xu hướng thời cuộc như Toán, Anhdẫn đến tình trạng HS không yêu thích môn văn và ngại học Văn. Trong giờ học các em luôn có những biểu hiện tiêu cực như ít phát biểu ý kiến, kĩ năng đọc bài kém thậm chí còn “vô cảm” trước những tác phẩm Văn học; làm bài thì lủng củng, thiếu mạch lạc và hành văn không mang tính văn chương. Dẫn đến chất lượng học Văn có chiều hướng giảm sút nghiêm trọng. Hiện thực ấy đã khiến cho bao GV tâm huyết với nghề phải trăn trở: Làm sao để giúp các em có hứng thú trong giờ học Văn? Làm sao để các em mong chờ, yêu thích khi học môn Văn? Làm sao để chất lượng giờ học Văn được nâng cao và có hiệu quả?
Với những yêu cầu trên.Tôi luôn ý thức là giáo viên trong giai đoạn hiện nay phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì mới đáp ứng được yêu cầu giảng dạy đó chính là đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học.
Qua những năm trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở , và được tham gia lớp tập huấn các chuyên đề triển khai dạy và học tích cực một số phương pháp và kỹ thuật dạy học ; dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Bằng những kinh nghiệm ít ỏi tích lũy tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: “Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS ” ở phạm vi ngữ văn THCS, áp dụng các kỹ thuật dạy học cụ thể phù hợp vào từng bài để đạt hiệu quả tốt trong học tập môn ngữ văn.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Xây dưng các kỹ thuật dạy hoc cụ thể cho tiết học, bài học trong chương trình ngữ văn 6,7,8,9 Trung học cơ sở.
Vân dụng hệ thống các các phương pháp và kỹ thuật dạy học chương trình ngữ văn cấp trung học cơ sở nhằm phát triển năng lực và tăng hứng thú học tập bộ môn văn cho học sinh. . Điều đó đã thôi thúc tôi tìm đến với đề tài :
“Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS” với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc đổi mới phương pháp dạy-học Ngữ văn hiện nay và phục vụ cho công tác giảng dạy của bản thân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 9 của trường THCS . Do năm học học 2017- 2018 tôi được ban giám hiệu phân công giảng dạy Ngữ văn 9. Chính vì thế phạm vi nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm này không chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh khối 9 mà có thể áp dụng cho các khối 6,7,8 của trường trong năm học 2018- 2019 vầ các năm học tiếp theo
Nội dung áp dụng một số bài học cụ thể trong chương trình ngữ văn của lơp 6, 7, 8, 9
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp quan sát thực tế của bản thân khi giảng dạy bộ môn Ngữ văn 9 THCS
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Phướng pháp nghiên cứu thực hành cụ thể vào từng bài, từng lớp học.
Phương pháp ghi chép và tổng hợp.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm :
Với đề tài “Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS ” . Đây là phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng không chỉ chú ý tới tích cực hóa học sinh về hoạt đọng trí tuệ mà còn chú ý tới rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn . Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển nặng lực giải quyết các vấn đề trong cuộc sống .
Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương châm “Tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều và thảo luận nhiều hơn ” .Điều đó có nghĩa ,mỗi học sinh vừa cố gắng tự lực độc lập , vừa hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới . Lớp học trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò - trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung .
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Tạo hứng thú cho học sinh trong việc học tập môn Ngữ văn cũng chính là đang góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ trong Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khoá VIII đã nêu: Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học; phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên..
Ước muốn dạy văn sao cho hay, học văn sao cho giỏi, viết văn sao cho tốt là ước muốn của rất nhiều GV và HS. Tuy vậy, để giờ học đạt kết quả cao người GV phải biết tư duy, tìm tòi làm mới bài giảng của mình và với cách tổ chức cho HS thảo luận nhóm, tham gia các trò chơi trong dạy học Văn sẽ giúp HS cảm thấy hứng thú tích cực trong học tập và nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn trong trường THCS.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1 Thực trạng .
* Về phía giáo viên:
Hầu hết GV đều có trình độ chuyên môn vững vàng, tâm huyết với nghề. Song để tìm ra và tiếp cận những phương pháp đổi mới trong dạy-học Ngữ văn thì không phải GV nào cũng làm được. Vì vậy mà một số GV vẫn còn thấy lúng túng trong phương pháp giảng dạy, không biết làm thế nào để tạo sự hứng thú cho HS trong học tập, nắm bắt được những kiến thức trọng tâm của bài học một cách nhẹ nhàng và sinh động từ đó khiến HS trở nên yêu thích học Văn.
Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn máy móc theo trình tự các bước lên lớp. Nó làm cho giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của HS. GV chỉ dùng một phương pháp thuyết trình là chủ yếu, không có sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng giáo án mẫu, thiết kế bài giảng một cách rập khuôn làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo của riêng bản thân.
*Về phía hoïc sinh
- Thuận lợi :
Một số HS vẫn có niềm đam mê, yêu thích môn Văn (tuy số này không nhiều) và vẫn còn có HS giỏi Văn với những bài văn hay và giàu cảm xúc.
- Khó khăn:
Tồn tại lớn nhất ở HS là thói quen thụ động, quen nghe,quen chép, ghi nhớ và tài hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì GV đã giảng mà chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, lười suy nghĩ và chỉ biết suy nghĩ, diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn; lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại làm nô lệ của sách vở. HS chưa có hào hứng và chưa mạnh dạn bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình trước tập thể cho nên càng ngày các em càng thấy chán học Văn. Các em tâm sự rằng: Mỗi khi đến giờ Văn là em lại thấy ngao ngán, em rất sợ và chẳng có hứng thú gì với nó cả.
HS hiện nay cũng rất lười soạn bài. Khi GV hỏi thì có em thản nhiên trả lời: “Em để quên vở soạn ở nhà”, hay là “tối qua em bị mệt”... Thầy cô bảo về lấy thì các em lấy lý do là nhà ở xaCũng có em soạn bài mang tính chất đối phó bằng cách chép từ các sách “học tốt” nhưng khi hỏi thì không hiểu gì, thậm chí trả lời những câu không hề có trong sách. Ngồi trong lớp thì không chú ý nghe giảng, thích cười đùa nói chuyện làm việc riêng. Vở ghi chép lung tung, có bài ghi một phần rất nhỏ xong để đấy. Đó chính là một rào cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy - học môn Văn.
Nổi bật là tình trạng chán học văn ở HS, rất ít HS đọc sách, tìm tòi tài liệu để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương, biết rung động trước những tác phẩm văn học hay. Vì vậy khi làm bài HS thường suy luận một cách chủ quan, thô tục hóa văn chương, chỉ chăm chú nhìn vào sách mẫu. Ngoài những lỗi trên thì tình trạng HS làm bài sai kiến thức cơ bản vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Đó là tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai tên tác giả tác phẩm, nhầm tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khácđiều đó cũng lí giải là tại sao ngày càng xuất hiện những bài văn có cách cảm thụ,cách viết lạ lùng chẳng giống ai.
Phụ huynh HS cũng không tha thiết với việc học Văn của con em mình, sẵn sàng đầu tư vào các môn: Toán, Anhthậm chí cho con học thêm hai ba thầy nhưng với môn Văn lại rất coi thường, không cho con đi thi học sinh giỏi Văn, ngay cả cho vào đội tuyển học sinh giỏi cũng không muốn.
Chương trình, nội dung dạy với nhiều bài không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại, xa lạ với học sinh gây khó hiểu.
Từ thực trạng đó mà phần lớn học sinh chưa có hứng thú học môn Văn, ngại học Văn dẫn đến chất lượng dạy - học chưa cao.
2.2.2 Kết quả và hiệu quả của thực trạng.
Để thấy rõ thực trạng học tập ngữ văn và tâm trạng của các em khi học môn Văn tôi đã tiến hành điều tra bằng một câu hỏi: “Em có thích học văn không?” đối với HS lớp 7 và 9 ở Trường THCS năm học 2017 – 2018 và thu được kết quả như sau:
* Về sự yêu thích đối với tiết học:
Lớp
Sĩ số
Thích học
Muốn học
Không yêu thích
SL
%
SL
%
SL
%
7
30
3
10
15
50
12
40
9
35
5
14
10
29
20
57
* Về kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7
30
0
0
3
10
22
73
5
17
0
0
 9
35
0
0
5
14
24
69
4
11
2
6
Theo điều tra ở trên số lượng HS ham thích học môn Ngữ văn là 12,3%. Đây là kết quả mà đáng để mỗi GV dạy Văn phải suy nghĩ, trăn trở về tầm quan trọng của môn Văn và năng lực dạy môn Ngữ văn của mình. Từ thực trạng trên, tôi nhận thấy rằng đổi mới phương pháp giúp HS yêu thích học môn Ngữ văn, nâng cao chất lượng dạy-học môn Ngữ văn là điều tất yếu. Vì vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS” và ứng dụng trong giảng dạy. Sau một thời gian áp dụng số HS yêu thích học Văn đã nhiều hơn và kết quả về HS khá giỏi đã tăng lên rõ rệt.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1 .Giải pháp:
*Đối với giáo viên:
Từ những thực trạng nêu cho thấy rằng phương pháp giảng dạy của GV cực kì quan trọng. Điều này đã thôi thúc tôi tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu để tìm giải pháp giúp HS khắc phục tình trạng trên. Trong quá trình tìm tòi, giảng dạy tôi đã mạnh dạn áp dụng các giải pháp chính sau đây:
- Phân loại đối tượng HS một cách cụ thể để biết được khả năng tiếp thu kiến thức cũng như trình độ kiến thức của HS.
- Gần gũi, quan tâm động viên, khích lệ HS trong học tập môn Ngữ văn
- Tìm tòi, nghiên cứu kỹ nội dung bài học để đề ra những tình huống thảo luận, những trò chơi phù hợp với từng bài học, chuẩn bị đồ dùng dạy học trực quan, sinh động và có hiệu quả.
- Mỗi khi lên lớp GV không nên áp đặt cách hiểu của mình cho HS. HS là người chủ động, lĩnh hội kiến thức, cảm thụ tác phẩm nên GV chỉ gợi ý bằng vài câu hỏi, HS thảo luận, trả lời câu hỏi ra giấy sau đó đại diện một em trong nhóm trả lời. Giáo viên cho thuyết trình khi muốn chốt lại vấn đề.
- Dự giờ thăm lớp thường xuyên để học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp trong việc dạy học đặc biệt là về cách tạo hứng thú cho HS trong phương pháp giảng dạy.
- Có kế hoạch trao đổi với tổ, với đồng nghiệp để tổ chức những giờ dạy thực nghiệm áp dụng những hình thức thảo luận nhóm và trò chơi trong giờ học hoặc giờ ngoại khoá.
* Đối với học sinh :
- Trước khi lên lớp phải soạn bài đầy đủ và cẩn thận.
- Có tinh thần tự học tự tìm tòi nghiên cứu sách vở, tài liệu tham khảo và trau dồi năng lực cảm thụ Văn học cho bản thân.
- Chuẩn bị đầy đủ những tư liệu, đồ dùng, dụng cụ có liên quan đến bài học.
2.3.2. Tổ chức triển khai thực hiện:
2.3.2.1 Hình thức tổ chức thảo luận nhóm:
Trong học tập không phải bất kì một nhiệm vụ học tập nào cũng có thể được hoàn thành bởi những hoạt động thuần túy cá nhân . Có những bài tập những câu hỏi những vấn đề được đặt ra khó và phức tạp đồi hỏi phải có sự hợp tác giữa các cá nhân nên bên cạnh hình thức học tập cá nhân cần tổ chức học sinh học tập hợp tác trong các nhóm . Trong các nhóm mỗi cá nhân được phân công thực hiện một phần công việc và toàn nhóm phải phối hợp với nhau hoàn thành nhiệm vụ chung . Vì vậy hình thức này không chỉ phát huy cao độ sự suy nghĩ của mỗi cá nhân, mà còn tạo điều kiện để học sinh được nói được trao đổi nhiều hơn, hình thành mối quan hệ giao tiếp trò – trò .thông qua sự hợp tác tìm tòi, nghiên cứu, thảo luận tranh luận trong nhóm, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, được điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới, hứng thú và tự tin hơn trong học tập và cuộc sống . Vì vậy nên người dạy và người học cần hiểu rõ quy trình cách thức tổ chức dạy học theo nhóm .
* Đối với giáo viên: Cần nắm vững quy trình tổ chức dạy học theo nhóm qua các bước sau :
Bước 1: Thành lập nhóm:
Cách hình thành nhóm ở đây rất linh hoạt. Tùy thuộc vào từng tiết học, phạm vi của vấn đề, thời gian được trao đổi mà số lượng đơn vị nhóm có cơ cấu khác nhau. Khi phân nhóm, GV cần chú ý đến tâm sinh lí, giới tính và sức học của các thành viên trong nhóm. Khi nhóm được hình thành, GV cho nhóm tự bầu nhóm trưởng. Nhiệm vụ của nhóm trưởng là đôn đốc các thành viên trong nhóm, tổng hợp ý kiến và cử thành viên trình bày; vị trí này không nhất thiết phải cố định để tạo sự phấn đấu chung của cả nhóm.
Bước 2: Định hướng hoạt động nhóm:
Mục đích của hoạt động nhóm là để HS cùng trao đổi tìm tòi, học tập lẫn nhau. Để đạt hiệu quả, GV cần định hướng cho nhóm hoạt động theo yêu cầu công việc được giao. GV có thể phát phiếu học tập hoặc nêu yêu cầu cho nhóm, ấn định thời gian làm việc, các nhóm nhận nhiệm vụ tập trrung giải quyết vấn đề. Đối với phần văn học, dây là phần dễ tạo ra sự hứng thú, hấp dẫn. GV định hướng cho HS sưu tầm tranh ảnh, tư liệucó liên quan đến văn bản sẽ học. Đưa ra câu hỏi để cùng tìm tòi, trao đổi và cả những suy nghĩ, bài học rút ra từ văn bản.
- Bước 3: Kiểm tra quá trình chuẩn bị của học sinh
Trong khi học sinh làm việc, GV nên đến từng nhóm hỗ trợ, động viên nhắc nhở để các nhóm làm việc đều tay, đảm bảo thời gian. Mục đích để đôn đốc thái độ hợp tác tích cực của các thành viên, tránh tình trạng dựa dẫm, chỉ một cá nhân làm việc. Mặt khác thông qua quá trình kiểm tra để gợi mở cho HS, hướng vấn đề thảo luận đi vào trọng tâm.
- Bước 4: Báo cáo kết quả khi các nhóm hoàn thành công việc.
GV điều khiển từng nhóm lên báo cáo kết quả bằng trình bày trên giấy lớn hoặc rình bày miệng. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, thống nhất ý kiến.
- Bước 5: Kết luận vấn đề
GV tóm tắt kết quả đạt được, giúp HS tự nhận xét, đánh giá quá trình làm việc.
* Quản lí lớp học:
GV có trách nhiệm hướng dẫn và quản lí học sinh làm việc theo nhóm nhằm đạt được mục tiêu nội dung bài học. Để đạt được điều này, trước hết GV phải chuẩn bị rất kĩ phần thiết kế bài học, lựa chọn vấn đề cần làm theo nhóm. Trong quá trình thiết kế giáo án, GV cần chọn vấn đề cho việc tổ chức hoạt động nhóm và đặt ra các tinh huống thảo luận.
* Đối với học sinh:
Trong phương pháp dạy học tích cực người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động học, được cuốn hút vào những hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá ra những điều chưa biết chứ không phải là thụ động tiếp thu những tri thức đã được sắp đặt sẵn.
Để quá trình hoạt động chung đạt hiệu quả, tất yếu mỗi thành viên cần có ý thức tìm tòi, nghiên cứu, có sự thống nhất và phân công hợp lí, cụ thể. Để tiết kiệm thời gian, trưởng nhóm phân công mỗi thành viên phụ trách một mảng, sau đó cùng tổng hợp, thống nhất ý kiến, xây dựng phần cấu trúc trình bày của nhóm. Việc phân công càng cụ thể, hiệu quả càng cao.Với môi trường tập thể - lớp học, HS phải luôn hướng đến thái độ hợp tác trao đổi tích cực.
2.3.2.2: Cách tổ chức dạy học theo nhóm:
* Vận dụng các kiểu loại nhóm vào giờ học
Với phân môn văn học, dạy một văn bản, khó nhất là có được hệ thống câu hỏi, bài tập giúp mọi HS chủ động tích cực học tập, một vấn đề đưa ra phải tác động đến nhiều đối tượng HS, phải có nhiều HS suy nghĩ và trình bày ra điều mình nghĩ. Chính vì vậy trong một tiết học GV cần suy nghĩ để chọn phần nào, câu hỏi nào giành cho việc hoạt động nhóm, không nên quá lạm dụng hình thức này, dẫn đến nhàm chán, rơi vào bệnh hình thức nhóm
* Một số hình thức nhóm và cách chia nhóm:
- Chia nhóm theo số lượng: quy mô nhóm tùy thuộc vào nhiệm vụ sẽ giao cần đến ít hay nhiều người.
+ Nhóm nhỏ: nhóm theo từng cặp HS, thường hình thành bàng cách các em ngồi cạnh nhau quay mặt vào nhau.
+ Nhóm lớn: nhóm 1-2 bàn học, thường hình thành bằng cách bàn trên quay xuống bàn dưới.
- Chia nhóm theo tính chất:
+ Nhóm ngẫu nhiên: được chia theo một cách ngẫu nhiên, không tính đến đặc điểm của người trong nhóm.
+ Nhóm hỗn hợp: gồm những em có điều kiện năng lực khác nhau (thường chia theo tổ) tạo điều kiện cho các em hỗ trợ lẫn nhau khi làm việc.
+ Nhóm tình bạn và nhóm kinh nghiệm: HS tự lựa chọn bạn cùng sở thích, có sở trường hoặc kinh nghiệm về một lĩnh vực nào đó tạo thành một nhóm.( GV thường cho học sinh thực hiện ở nhà)
Tùy theo yêu cầu của câu hỏi kiến thức bài học, của vấn đề GV đưa ra để nhóm làm việc nên hướng tới mục tiêu, yêu cầu, kết quả cần đạt và quy định thời gian làm việc.
Nếu vấn đề nhỏ thì chỉ thảo luận trong nhóm nhỏ khoảng 2-3 học sinh (theo từng cặp hoặc từng bàn) trong thời gian ngắn.
* Chuẩn bị của giáo viên:
+ Bảng phụ, phiếu học tập,chuẩn bị nội dung câu hỏi thảo luận.
+ Câu hỏi thảo luận nên chia nhỏ, câu hỏi khó phải có câu hỏi gợi mở.
+ Nội dung câu hỏi phải rõ ràng, phù hợp với đối tượng HS.
+ Câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy, kích thích khả năng sáng tạo cho HS.
+ Các câu hỏi chỉ nên xoay quanh nội dung chính của bài học.
+ Thời gian thảo luận không quá ngắn HS không kịp định hình, cũng không quá dài ảnh hưởng tới thời gian tiết học.
+ Phân nhóm cho HS thảo luận không nên quá ít mà cũng không quá đông.
+ HS thảo luận xong, GV gọi ít nhất hai nhóm trả lời, còn lại thu bài về nhà chấm và sửa hôm sau phát lại (tránh mất nhiều thời gian của tiết học).
+ Phân công một HS nhanh nhẹn làm trưởng nhóm, một HS ghi nhanh làm thư ký.
+ Việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm thì có thể sắp xếp bất kì khoảng thời gian nào trong tiết dạy.
* Chuẩn bị của học sinh:
+ Đọc kĩ các câu hỏi trong phần bài học.
+ Ghi ý kiến của bản thân về các câu hỏi cho là khó.
+ Mạnh dạn trình bày ý kiến trước nhóm, trước lớp lớp.
2.3.2.3. Một số ví dụ minh hoạ:
*Khi dạy tiết 53: “Tiếng gà trưa”( Xuân Quỳnh- Ngữ văn 7) GV có thể đưa ra câu hỏi và yêu câu các nhóm trả lời: Trong bài thơ “Tiếng gà trưa” từ việc gợi lại những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ và tình bà cháu tác giả Xuân Quỳnh muốn gửi tới người đọc thông điệp gì?
*GV cũng có thể đưa ra những câu hỏi thảo luận về vấn đề: Bé Hồng đã có thái độ như thế nào trước câu hỏi của người cô? (“Trong lòng mẹ”- Nguyên Hồng- Ngữ văn 8)
*Khi dạy văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” – Ngữ văn 9) GV có thể dùng một số câu hỏi thảo luận như sau:
- Lời trăn trối của bà mẹ chồng giúp ta hiểu thêm điều gì về nàng Vũ Nương ?
- Theo em, nguyên nhân dẫn đến nỗi oan của Vũ Nương là gì? Em hãy chỉ rõ và phân tích những nguyên nhân đó
- Theo em, có cá

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ki_thuat_day_hoc_tich_cuc_bang_cach_thao_luan_nhom_va_t.doc