SKKN Hướng dẫn học sinh tiếp cận bài thơ “Tràng giang” dưới góc nhìn không gian nghệ thuật
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ luôn nhạy cảm với thời gian thì Huy Cận là nhà thơ của không gian. Không gian nghệ thuật thơ Huy Cận là cả một thế giới bên trong sâu lắng, bàng bạc mông mênh cảm xúc. Lấy cảm hứng từ vũ trụ và thiên nhiên, thơ Huy Cận là cõi bao la trong nỗi buồn mênh mang, là sự cảm nhận thân phận bé nhỏ cô độc của con người trước vũ trụ, là cái hữu hạn đời người trước vô tận của đất trời
Đi tìm những nét đặc trưng trong thi pháp nghệ thuật của Huy Cận, thế giới nội tâm sâu lắng qua hình ảnh của không gian là hướng tiếp cận đúng đắn, sẽ giải mã được những vấn đề cốt lõi trong thơ Huy Cận. Không gian trong thơ Huy Cận hiện hữu như: Dòng sông, bầu trời, con đường, biển cả Song tất cả cũng để toát lên nỗi buồn thiên cổ, nỗi buồn như từ thuở con người cảm nhận được kiếp người, cảm nhận cái tôi bé nhỏ của một linh hồn lạc loài chấp chới. Phải đến sau Cách mạng tháng Tám, cuộc sống mới đã thổi vào hồn thơ Huy Cận một nguồn gió mới làm thay đổi điểm nhìn, cách nhìn của nhà thơ. Vẫn bút pháp tài hoa lãng mạn, vẫn cảm hứng về vũ trụ nhưng hồn thơ thi nhân căng tràn nhựa sống, đầy ắp niềm tin “Trời mỗi ngày lại sáng”. Điểm nhìn đã thay đổi tất yếu tứ thơ cũng thay đổi, hình tượng thiên nhiên, vũ trụ cũng thay đổi và tạo nên thông điệp mới về con người, cuộc sống.
MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG 1 Mở đầu 2 1.1 Lí do chon đề tài 2 1.2 Mục đích nghiên cứu 5 1.3 Đối tượng nghiên cứu 6 1.4 Phương pháp nghiên cứu 6 2 Nội dung 6 2.1 Cơ sở lí luận của vấn đề 6 2.2 Cơ sở thực tiễn của vấn đề 9 2.3 Các giải pháp để giải quyết vấn đề 10 2.3.1 Không gian thiên nhiên quê hương, đất nước – không gian của cái tuyệt đích, vô cùng 10 2.3.2 Không gian ứng chiếu, giao thoa tâm tình giữa chủ thể và ngoại giới 14 2.3.3 Không gian mang dấu ấn thế giới quan phương Đông – một chỉnh thể thống nhất của những mặt đối lập 16 2.4 Hiệu quả của đề tài 18 3 Kết luận, kiến nghị 19 3.1 Kết luận 19 3.2 Kiến nghị 19 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài 1.1.1. Nếu Xuân Diệu là nhà thơ luôn nhạy cảm với thời gian thì Huy Cận là nhà thơ của không gian. Không gian nghệ thuật thơ Huy Cận là cả một thế giới bên trong sâu lắng, bàng bạc mông mênh cảm xúc. Lấy cảm hứng từ vũ trụ và thiên nhiên, thơ Huy Cận là cõi bao la trong nỗi buồn mênh mang, là sự cảm nhận thân phận bé nhỏ cô độc của con người trước vũ trụ, là cái hữu hạn đời người trước vô tận của đất trời Đi tìm những nét đặc trưng trong thi pháp nghệ thuật của Huy Cận, thế giới nội tâm sâu lắng qua hình ảnh của không gian là hướng tiếp cận đúng đắn, sẽ giải mã được những vấn đề cốt lõi trong thơ Huy Cận. Không gian trong thơ Huy Cận hiện hữu như: Dòng sông, bầu trời, con đường, biển cả Song tất cả cũng để toát lên nỗi buồn thiên cổ, nỗi buồn như từ thuở con người cảm nhận được kiếp người, cảm nhận cái tôi bé nhỏ của một linh hồn lạc loài chấp chới. Phải đến sau Cách mạng tháng Tám, cuộc sống mới đã thổi vào hồn thơ Huy Cận một nguồn gió mới làm thay đổi điểm nhìn, cách nhìn của nhà thơ. Vẫn bút pháp tài hoa lãng mạn, vẫn cảm hứng về vũ trụ nhưng hồn thơ thi nhân căng tràn nhựa sống, đầy ắp niềm tin “Trời mỗi ngày lại sáng”. Điểm nhìn đã thay đổi tất yếu tứ thơ cũng thay đổi, hình tượng thiên nhiên, vũ trụ cũng thay đổi và tạo nên thông điệp mới về con người, cuộc sống. 1.1.2. Bắt đầu từ những vần thơ trong tập Lửa thiêng, không gian nghệ thuật của Huy Cận thường gắn liền với những dòng sông mênh mông nước: “Nắng đã xế về bên xứ bạn/ Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy” (Vạn lý tình). Sông nước cứ dềnh lên, mênh mông không tìm thấy đâu là bến bờ. Đó chính là dòng cảm xúc. Không gian nghệ thuật của nhà thơ như kéo dài vô tận: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song/ Thuyền về nước lại sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng” (Tràng giang). Giữa cái mênh mông của sông dài trời rộng, một con thuyền trôi xuôi, một cành củi khô lạc giữa dòng, đó là biểu tượng thân phận con người bơ vơ giữa dòng đời, giữa thiên nhiên. Cái cảm giác cô đơn của con người trong thơ Huy Cận không chỉ đặt trong không gian ba chiều mênh mông bát ngát mà còn có cả chiều thứ tư: Chiều thời gian vô tận (sóng gợn tràng giang), đó là nỗi buồn nhân thế từ ngàn xưa vọng về theo cơn sóng gợn để lay động tâm thức nhà thơ. Không gian vô định, thời gian vô tận chỉ con người nhỏ bé hữu hạn. Giáo sư Phan Cự Đệ đã gọi đó là “Cái buồn trong cuộc đời thực thành những dòng lệ trong văn chương”. 1.1.3. Theo quan niệm mỹ học của các nhà thơ mới, cái đẹp luôn gắn với cái buồn, cái buồn trong Tràng giang cứ chất chồng tầng tầng lớp lớp, cứ luôn hiện hữu như từng cơn sóng gợn mặt nước sông dài, và thiên nhiên được cá thể hóa thành “Củi một cành khô” lạc giữa dòng trôi vô định, thành những cánh bèo dật dờ nước cuốn: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng/ Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật/ Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” (Tràng giang). Thân phận bọt bèo, trôi về đâu? Không gian với tính ước lệ tượng trưng qua hình ảnh những cánh bèo trôi. Nhà thơ mang cả nỗi buồn thời thế, mang cả tâm trạng cô độc trong thế giới nội tâm sâu thẳm trong không gian hiu quạnh. Không một con đò, không một chiếc cầu, không chợ, không khói chiều, chỉ có thi nhân cô độc dưới bóng chiều lặng ngắm những cánh bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau phiêu dạt qua bờ xanh bãi vàng hiu hắt để nỗi buồn cứ dợn lên cứ lan tỏa thấm sâu nỗi nhớ quê nhà của thân phận lạc loài. Không gian bên ngoài đi vào thơ Huy Cận thành thế giới nội tâm, nhà thơ thường chọn những khoảng cách vô tận mang tính đối lập: “Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” (Tràng giang); “Lên bề cao hay đi xuống bề sâu?/ Không biết nữa - Có chút gì làm ngợp” (Đi giữa đường thơm); “Nắng đã xế về bên xứ bạn/ Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy” (Vạn lý tình). Không có sự giao thoa, chỉ có khoảng cách mưa - nắng, dài - rộng, lên - xuống, cao - sâu Ngay cả trong lời tự tình tuyệt đẹp của Ngậm ngùi, không gian cũng bị chia cắt trên cũng một bãi sông: “Nắng chia nửa bãi chiều rồi/ Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu” (Huy Cận). Đó chính là nỗi cô đơn giằng xé đến tột cùng. Nếu như Xuân Diệu: “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”, thì Huy Cận lại mang đến một trường liên tưởng rất lạ tạo cho người đọc một cảm giác không gian như đè nén lên tâm can để con người có thể cân đo không gian trong thoáng mơ hồ: “Tai nương giọt nước mái nhà/ ghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn” (Buồn đêm mưa). Cái buồn vô cớ mà vẫn cứ buồn, chừng như cái buồn ấy cứ chực chờ một ngoại cảnh nào đó có tác động hay không thì vẫn tuôn tràn. Những giọt mưa là những giọt buồn tích tụ, lắng đọng trong cảm giác lả tả mơ hồ của cõi vô thức. 1.1.4. Không gian nghệ thuật luôn có ranh giới với không gian vật chất bên ngoài, nó là thế giới tinh thần là điểm nhìn của nhà thơ. Huy Cận chọn không gian của buổi chiều trong Ngậm ngùi: “Tay anh em hãy tựa đầu/ Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi” Trong tập thơ Lửa thiêng, Huy Cận không vẽ nên những bức tranh hoành tráng của thiên nhiên, không tô vẽ sắc màu rực rỡ mà chủ yếu là sắc màu tâm tưởng, bàng bạc, đìu hiu heo hút của ngôi làng vùng sơn cước, là tiếng thở dài, tủi nhục của người dân mất nước, là tâm trạng cô đơn đến tột cùng của con người trước vũ trụ Và có lẽ phải đến cuối những thập niên 50 của thế kỷ 20, tâm hồn thơ Huy Cận mới dạt dào nhựa sống thời đại: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa/ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi” (Đoàn thuyền đánh cá). Không là “Nắng chia nửa bãi”, không là “Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư” mà là một bầu trời lồng lộng cao rộng in ráng đỏ xuống mặt biển bao la, là nhịp điệu cuộc sống mạnh mẽ, tấp nập, mặc cho bóng đêm đổ ập vào. Sóng cồn lên nhốt ánh sáng bằng động tác sập cửa nhanh mạnh, dứt khoát. Bóng đêm phủ trùm nhưng con người không bơ vơ, rợn ngợp mà đầy ắp niềm lạc quan yêu đời: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng” (Đoàn thuyền đánh cá). Đó là cách đặt con người ngang tầm vũ trụ, con thuyền là gạch nối để liên kết trời và biển. Nhà thơ khắc tạc không gian đầy sắc màu: Lấp lánh của cá song giữa ánh trăng vàng chóe rồi vẩy bạc đuôi vàng, rạng đông Đó là những màu tươi sáng của cuộc sống ấm no, của hạnh phúc. Tầm thước con người trở nên rộng lớn, bài thơ là khúc tráng ca về lao động, về tình yêu thiên nhiên, cuộc sống. 1.1.5. Tràng giang là điển hình cho tư duy không gian đầy “khắc khoải” của Huy Cận, là những gì tinh tuý nhất của “Lửa thiêng”. Nhà phê bình Đỗ Lai Thuý cho rằng Huy Cận là nhà thơ của “sự khắc khoải không gian”. “Tràng giang là một bài thơ về không gian, chứa đầy không gian”. Nhà thơ mô tả cái mênh mông của không gian bằng những vật thể nhỏ như một cành củi, cồn nhỏ lơ thơ, những đám bèo dạt trên mặt nước... bởi lẽ, chúng dễ chuyên chở cảm giác cô đơn, rợn ngợp của con người. Đề tài “Hướng dẫn học sinh tiếp cận bài thơ “Tràng giang” dưới góc nhìn không gian nghệ thuật” sẽ đem lại cái nhìn vừa cụ thể lại vừa mới mẻ, đa chiều, tạo hứng thú cho các em tiếp nhận tác phẩm một cách sâu sắc, trọn vẹn hơn. 1.2. Mục đích nghiên cứu Đề tài này đi sâu vào hướng tiếp cận văn bản thơ trữ tình từ góc nhìn thi pháp học. Xuất phát từ thực tế dạy văn bản văn học hiện nay, người dạy chỉ định hướng học sinh tiếp nhận theo phương pháp truyền thống: tìm hiểu tác giả, chủ đề tư tưởng của tác phẩm, phân tích nội dung, những biểu hiện nghệ thuật ở các khổ thơ, bài thơ. Điều đó dẫn đến cách dạy – học nặng tính công thức, đơn điệu, nhàm chán. Giờ dạy - học thơ trữ tình nặng tính thao tác, thiếu chiều sâu cho những tìm tòi, trải nghiệm, rung cảm nghệ thuật. Văn bản văn học nói chung, văn bản thơ trữ tình nói riêng có tính mở, đa ngôn, đa nghĩa. Người dạy có thể định hướng học sinh cách tiếp cận nhiều chiều, trong đó tiếp cận từ góc nhìn thi pháp - về không gian, thời gian nghệ thuật sẽ giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc, đa chiều từ đó khơi dậy ở học sinh những rung cảm thẩm mĩ, đi tới tận sâu thẳm những điều ẩn kín ở chủ thể trữ tình. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài này hướng đến nghiên cứu những vấn đề cụ thể sau đây: Không gian trong thơ Huy Cận nói chung, không gian nghệ thuật trong bài thơ Tràng Giang: - Không gian thiên nhiên quê hương, đất nước – không gian của cái Tuyệt đích, Vô cùng. - Không gian ứng chiếu, giao thoa tâm tình giữa chủ thể và ngoại giới. - Không gian mang dấu ấn thế giới quan phương Đông – một chỉnh thể thống nhất của những mặt đối lập 1.4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết. - Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề Tiếp cận tác phẩm văn chương dưới góc nhìn thi pháp học là hướng nghiên cứu được các nhà khoa học quan tâm. Trong đó, các vấn đề cơ bản, nổi bật như điểm nhìn nghệ thuật, kết cấu trần thuật, giọng điệu, không gian, thời gian là chìa khoá giúp giải mã thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Đối với thơ ca, tiếp cận dưới góc nhìn này lại càng khả dĩ, bởi sẽ soi sáng nhiều vấn đề quan trọng khi người dạy, người học bước vào khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm thơ ca. Bàn về không gian nghệ thuật trong tác phẩm trữ tình, Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian, không gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người”. Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ tọa độ không – thời gian xác định, nên những cảm nhận của con người về thế giới đều bắt đầu từ sự đổi thay của không gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không gian – thời gian, con người nhận ra sự đổi thay trong chính mình. Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Thi pháp ca dao thì: “Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật” Ở đề tài này, người viết sẽ trình bày về hướng tiếp cận không gian nghệ thuật trong bài thơ Tràng giang. Bởi vì với Huy Cận, không gian trở thành mọi thước đo của tư tưởng, tình cảm, với những biểu hiện từ hình thức cho đến nội dung biểu đạt của tác phẩm. Để hiểu đầy đủ, sâu sắc hơn về không gian nghệ thuật trong Tràng giang của Huy Cận, người viết xin viện dẫn ra đây một số vấn đề lí luận về không gian, không gian nghệ thuật, những đặc điểm của không gian nghệ thuật để làm điểm tựa cho phần trình bày Không gian nghệ thuật trong bài thơ Tràng giang của mình: Khái niệm không gian Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê đã cắt nghĩa, lí giải về không gian như sau: “Không gian là khoảng không bao la trùm lên tất cả sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con người”. Không gian chính là môi trường chúng ta đang sống với sự tồn tại của các sự vật. Không gian chính là hình thức tồn tại của vật chất với những thuộc tính như cùng tồn tại và tách biệt, có chiều kích và kết cấu. Khái niệm không gian nghệ thuật Để hiểu được khái niệm không gian nghệ thuật một cách cơ bản và khái quát nhất, tôi xin được viện dẫn cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”. Giáo sư Trần Đình Sử lí giải thêm: “Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại cùng thế giới nghệ thuật”. Ông còn khẳng định một cách hết sức chắc chắn: “Không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào không nào không có một nền cảnh nào đó”, và “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống” Như vậy, không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống, “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”. Và sự miêu tả, trần thuật bên trong tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, ta xác định được vị trí của chủ thể trong không – thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất định. Căn cứ vào điểm nhìn mà xác định được vị trí của chủ thể trong không – thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm của khách thể được nhìn. Điểm nhìn không gian được thể hiện qua các từ chỉ phương vị (phương hướng, vị trí), để tạo thành “viễn cảnh nghệ thuật”. Tóm lại, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật. Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại. Lửa thiêng của Huy Cận nói chung và bài thơ Tràng giang nói riêng đã mang đầy đủ những đặc điểm thi pháp của Thơ Mới, trong đó đặc sắc nghệ thuật đã hình thành phong cách thơ độc đáo của Huy Cận là không gian nghệ thuật. Không gian trong Tràng giang là không gian vũ trụ bao la, bất tận với trời rộng, sông dài, là không gian cõi lòng của các tôi trữ tình nhỏ bé, lạc loài, cô đơn, bơ vơ - nỗi niềm tâm trạng con người khi đối diện trước không gian; bộc lộ nỗi “khắc khoải không gian” của hồn thơ Huy Cận. Bàn về thơ Huy Cận, Xuân Diệu cho rằng: "Huy Cận như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian". Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nhận xét vô cùng tinh tế, chính xác: "Người thấy lạc loài giữa cái mênh mông của không gian, cái xa vắng của thời gian, lời thơ vì thế mà buồn rười rượi". 2.2.Cơ sở thực tiễn của vấn đề 2.2.1. Như một thói quen, người giáo viên dạy văn thường hay đứng ở một góc nhìn để lí giải tác phẩm nên bỏ qua nhiều khía cạnh khác quan trọng, trong đó có góc nhìn thi pháp học. Tiếp nhận văn học từ góc độ Thi pháp học là quan tâm đến vấn đề không gian nghệ thuật. Không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Với tư cách là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, không gian có thể biểu hiện ở các phạm trù như cao – thấp, rộng – hẹp, trong – ngoài, thoáng đãng – tù túng hoặc gắn với các địa điểm cụ thể như núi non, sông biển, nhà cửa, con đường, bầu trời Khi tìm hiểu không gian nghệ thuật, bên cạnh việc chỉ ra đặc điểm của thế giới nghệ thuật được tái hiện, còn cần chỉ ra quan niệm của nhà văn về không gian. Chỉ ra được quan niệm của nhà văn về không gian cũng chính là chỉ ra được cảm nhận của nhà văn về cuộc sống, thấy được chiều sâu trong tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. 2.2.2. Khi dạy bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận, người dạy thường tiếp cận từ góc độ tác giả, rồi phân tích từng khổ thơ với các biểu hiện nội dung và nghệ thuật. Hướng tiếp cận ấy mang tính công thức, tuy không sai nhưng lại thiếu chiều sâu, không thể hiện được năng lực định hướng, tổ chức của người dạy và năng lực khám phá, sáng tạo của người học. Tiết học nặng về thuyết trình tác giả, các bước tiếp cận tác phẩm công thức, đơn điệu, thiếu tính sáng tạo. Giờ học trở nên nhàm chán. 2.2.3. Từ thực trạng còn nhiều bất cập ấy, việc tìm tòi một hướng tiếp cận mới khi dạy tác phẩm “Tràng giang” là điều trăn trở của không ít thầy cô dạy văn. Qua thực tiễn giảng dạy, chúng tôi nhận thấy tiếp cận tác phẩm này dưới góc nhìn thi pháp học, nhìn bài thơ Tràng giang như một kiến trúc về không gian, với nhiều kiểu kết cấu không gian khác nhau. Không gian nghệ thuật như là chìa khoá giúp người học bước vào thế giới nghệ thuật của nhà thơ với những quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng, tình cảm sâu sắc, mới mẻ. Đây là hướng đi cần thiết, sẽ khơi nguồn cảm hứng mới cho cả người dạy và người học tiếp nhận tác phẩm thêm sâu sắc, trọn vẹn hơn. 2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề 2.3.1. Không gian thiên nhiên quê hương, đất nước – không gian của cái tuyệt đích, vô cùng. Trước hết, dạy bài Trang giang tôi khái quát cho học sinh: Tràng giang trước hết là một bức họa với chất liệu ngôn từ nghệ thuật. Nó họa lại một không gian sông nước mênh mông, rộng lớn với bốn chiều kích dài – rộng – cao – sâu. Ở chiều kích nào cũng được đẩy lên tới cái tuyệt đích, vô cùng, hạt nhân trung tâm là cái tôi trữ tình luôn khát khao chiếm lĩnh, bao trọn. Bài thơ “được sông Hồng gợi tứ”. Vậy thì chí ít, dòng sông trên trang thơ Huy Cận sẽ có dáng hình của sông trên bất cứ mảnh đất nào của nước ta, chứ không nhất thiết phải là sông Hồng. Thế nên, Huy Cận định danh cho không gian ấy là Tràng giang. Cái tên đẩy nhẹ cánh cửa ngôn từ, hé mở một không gian có gì như cổ kính, trang trọng lắm. Điệp âm “ang” giao thoa về ngữ âm, tạo hình trong trí tưởng tượng người đọc về một dòng sống dài vô tận, rộng mênh mang. Dòng Tràng giang đã được cảm nhận từ hai thước đo: thước đo địa lí và thước đo lịch sử. Tràng giang không chỉ vô thủy vô chung dưới góc nhìn của địa lí mà trầm tích trong dòng chảy ấy là bề dày lịch sử – văn hóa. Có một dòng sông chảy song hành cùng dòng chảy miên viễn của thời gian vũ trụ, khởi nguyên từ thượng nguồn quá khứ, lặng lờ trong thực tại và miên man tới tận tương lai vô cực. Một sự bề thế đáng tự hào của dòng sông đất nước, quê hương mình. Trong bài thơ, Huy Cận cứ nhắc mãi về cái ấn tượng “trời rộng”, “sông dài” từ lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đến tận câu thơ cuối khổ thứ hai: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Không gian được mở ra ở tầm thấp lẫn tầm cao: trên là “trời rộng” thênh thang, dưới là “dòng dài” miệt mài chảy trôi, kéo mãi tới tận chân trời. Ấn tượng về sự “rộng” “dài” của không gian được tấu lên từ dòng thơ đầu của khổ thứ nhất: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Sóng trên mặt sông chỉ “gơn”, chỉ lăn tăn, miên man không dứt khiến dòng sông mềm như một dải lụa, uốn nhẹ thân mình trong gió chiều miên man. Từ láy “điệp điệp” trước nhất miêu tả động thái của từng lớp sóng sông. Từng con sóng nhỏ nối đuôi nhau, kéo nhau hết lớp nọ đến lớp kia đưa nhau đến tận cùng khoảng giới hạn của đường chân trời xa xăm. Nói là giới hạn, chứ biết đường chân trời chẳng qua chỉ là cái giới hạn tương đối mà con người tự huyễn hoặc để thỏa mãn nhu cầu chiếm lính vũ trụ của mình. Không gian thơ được mở ra tới vô cùng. Khi đã hình dung cái tuyệt đích của không gian Tràng giang ở bề “rộng” “dài”, Huy Cận đẩy không gian bằng chiều kích thứ ba và thứ tư – chiều cao và chiều sâu. Một không bốn chiều được xác lập cũng là khi sự vô biên, tính chất vũ trụ của Tràng giangvững chãi ở chiếc ngai vàng Tuyệt đích: “Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Phê bình hai câu thơ này, PGS.TS Chu Văn Sơn đã thể hiện được khả năng thẩm bình tuyệt hay, tuyệt khéo của mình: “Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao. Câu dưới là sự vô biên về cả bề rộng và chiều dài. Có một khoảng không gian đang giãn nở ra trong cụm từ “nắng xuống trời lên”. Hai động từ ngược hướng “lên” và “xuống” đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và nó được hoàn t
Tài liệu đính kèm:
- skkn_huong_dan_hoc_sinh_tiep_can_bai_tho_trang_giang_duoi_go.doc