SKKN Hướng dẫn học sinh cách khai thác nghệ thuật ngôn từ qua các đoạn trích giảng “Truyện Kiều” trong chương trình Ngữ văn 9
“Truyện Kiều” từ khi ra đời đến nay, trải qua thời gian trên một trăm năm mà vấn đề nghiên cứu phê bình tác phẩm này vẫn chưa bao giờ có thể coi là kết thúc. Bởi các đóng góp của Nguyễn Du về vấn đề giá trị nhân đạo cũng như về mặt phản ánh hiện thực qua tác phẩm. Theo Hoài Thanh: “Truyện Kiều là “một tiếng kêu thương”, “một bản tố cáo”, “một giấc mơ”. “Truyện Kiều là đỉnh cao của thơ ca cổ điển dân tộc, trong tác phẩm đó, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho việc sáng tạo nghệ thuật ngày nay.”[4]
Văn học là loại hình ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện đặc thù. Giảng dạy văn học xét đến cùng là giảng dạy ngôn ngữ văn học. Khi tìm hiểu “Truyện Kiều”, người giáo viên cần đặc biệt chú ý phân tích ngôn ngữ của truyện. Nhưng với yêu cầu của chương trình phổ thông và một số tiết quy định, giáo viên không thể tham lam đi vào việc phân tích quá nhiều từ ngữ mà phải biết chọn lọc. Do đó, khi phân tích, người thầy cần tập trung vào những từ ngữ có ý nghĩa biểu hiện tính cách nhân vật cũng như chủ đề cơ bản của tác phẩm với giá trị nghệ thuật tối ưu. Chính vì vậy, việc tìm hiểu giá trị của các từ ngữ trong “Truyện Kiều” ngày càng có những điều mới mẻ, giúp ta nâng cao được trình độ cảm thụ từ ngữ, cảm thụ tác phẩm cho học sinh.
Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động học tập cùng với những băn khoăn, trăn trở qua nhiều năm dạy văn, với mong muốn học sinh có sự rung động tinh tế, lâu bền với các tác phẩm văn học thông qua việc cảm thụ các từ ngữ “đắt” trong tác phẩm đã thôi thúc tôi quyết định chọn đề tài : “Hướng dẫn học sinh cách khai thác nghệ thuật ngôn từ qua các đoạn trích giảng “Truyện Kiều” trong chương trình ngữ văn 9” cho sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1. Mở đầu 1.1. Lí do chon đề tài: “Truyện Kiều” từ khi ra đời đến nay, trải qua thời gian trên một trăm năm mà vấn đề nghiên cứu phê bình tác phẩm này vẫn chưa bao giờ có thể coi là kết thúc. Bởi các đóng góp của Nguyễn Du về vấn đề giá trị nhân đạo cũng như về mặt phản ánh hiện thực qua tác phẩm. Theo Hoài Thanh: “Truyện Kiều là “một tiếng kêu thương”, “một bản tố cáo”, “một giấc mơ”. “Truyện Kiều là đỉnh cao của thơ ca cổ điển dân tộc, trong tác phẩm đó, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho việc sáng tạo nghệ thuật ngày nay.”[4] Văn học là loại hình ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện đặc thù. Giảng dạy văn học xét đến cùng là giảng dạy ngôn ngữ văn học. Khi tìm hiểu “Truyện Kiều”, người giáo viên cần đặc biệt chú ý phân tích ngôn ngữ của truyện. Nhưng với yêu cầu của chương trình phổ thông và một số tiết quy định, giáo viên không thể tham lam đi vào việc phân tích quá nhiều từ ngữ mà phải biết chọn lọc. Do đó, khi phân tích, người thầy cần tập trung vào những từ ngữ có ý nghĩa biểu hiện tính cách nhân vật cũng như chủ đề cơ bản của tác phẩm với giá trị nghệ thuật tối ưu. Chính vì vậy, việc tìm hiểu giá trị của các từ ngữ trong “Truyện Kiều” ngày càng có những điều mới mẻ, giúp ta nâng cao được trình độ cảm thụ từ ngữ, cảm thụ tác phẩm cho học sinh. Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động học tập cùng với những băn khoăn, trăn trở qua nhiều năm dạy văn, với mong muốn học sinh có sự rung động tinh tế, lâu bền với các tác phẩm văn học thông qua việc cảm thụ các từ ngữ “đắt” trong tác phẩm đã thôi thúc tôi quyết định chọn đề tài : “Hướng dẫn học sinh cách khai thác nghệ thuật ngôn từ qua các đoạn trích giảng “Truyện Kiều” trong chương trình ngữ văn 9” cho sáng kiến kinh nghiệm của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trong trường phổ thông trung học cơ sở hiện nay, học sinh nói chung và học sinh lớp 9 nói riêng, trình độ cảm thụ văn học chưa cao. Các em chưa trang bị được cho mình vốn sống, vốn văn hoá, sử dụng từ ngữ trong nghệ thuật diễn đạt còn yếu, chưa tự mình cảm thụ được giá trị nghệ thuật của từ ngữ trong các tác phẩm văn học. Đăc biệt, trong chương trình ngữ văn 9, các em được tiếp xúc với nhiều tác phẩm văn học cổ. Vì vậy, việc rèn luyện để học sinh cảm nhận được giá trị nghệ thuật của các từ ngữ trong các tác phẩm là rất cần thiết và quan trọng. Chính vì lẽ đó, ở đề tài này tôi xin đề cập đến một vài biện pháp giúp học sinh cảm thụ được giá trị một số từ ngữ nghệ thuật trong “Truyện Kiều”. Từ đó, học sinh có thể tự mình phân tích tác phẩm để thấy rõ giá trị và hạn chế của tác phẩm đó. 1.3. Đối tượng nghiên cứu – khảo sát, thực nghiệm Phần văn học trung đại lớp 9. Học sinh lớp 9 trường THCS Thọ Ngọc - huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá 1.4. Phương pháp nghiên cứu Đọc tài liệu tham khảo. - Nghiên cứu về từ ngữ nghệ thuật, về giải pháp giúp học sinh cảm thụ giá trị của một số từ ngữ nghệ thuật trong “Truyện Kiều”. Áp dụng nội dung nghiên cứu vào dạy - học. Rút kinh nghiệm sau mỗi giờ dạy ở các đối tượng học sinh khác nhau. 1.5. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu: Giới thiệu phạm vi đề tài: Hướng dẫn học sinh cách khai thác nghệ thuật ngôn từ qua các đoạn trích giảng “ Truyện Kiều” trong chương trình Ngữ văn 9. Kế hoạch nghiên cứu: Năm học 2015-2016 đến năm học 2016 – 2017. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lí luận Nói đến văn chương là nói đến nghệ thuật của ngôn từ, trong đó nhà văn là “người nghệ sĩ ngôn từ”[5]- như Mac-xim Gooc-ki đã khẳng định: Từ là yếu tố quan trọng nhất của văn học. Các yếu tố ngữ âm chỉ có mặt hình thức , nếu không thông qua nghĩa của từ, của câu thì tác dụng gợi ý, gợi cảm sẽ hết sức hạn chế. Do góp phần đắc lực vào việc xây dựng hình tượng văn học, ngôn ngữ phải biểu hiện thành những hình tượng ngôn từ. Trong các tác phẩm văn học thì từ chính là chất liệu, phương tiện để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật. “Thiên tài ở chỗ dùng từ xác đáng”[2]- nói như vậy, Để có được những tác phẩm để đời, người nghệ sĩ đã phải khổ công lao động vất vả. Nguyễn Tuân- người được xem là bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ cũng đã từng nói rất hay, rất thấm thía về cái khổ công của người luyện chữ ấy: “Đêm thanh vắng còn gì dễ sợ bằng trang giấy cứ trắng nguyên cho tới gần hết đêmThấy nguyền rủa bè lũ hình tượng chữ nghĩa nó cứ bè nhau từ giã mình, mình bỗng chốc là kẻ cùng đường bên sông chữ quạnh vắng thê lương”. Như vậy, qua ngôn từ, ta cảm được “cái tâm”, “cái tài” của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Vậy lẽ nào ta không khai thác, tìm hiểu nó mà chỉ hiểu cái nghĩa “tường minh” chờn vờn bên ngoài còn xem nhẹ cái nghĩa “hàm ý” sâu xa để rồi học tác phẩm mà học sinh lại chẳng hiểu tác phẩm nói gì hay sao? Trên cơ sở đó, giáo viên xác lập cho học sinh cách khai thác nghệ thuật ngôn từ qua các đoạn trích giảng “Truyện Kiều” trong chương trình Ngữ văn 9. 2.2. Cơ sở thực tiễn Trong chương trình ngữ văn 9, các em được tiếp xúc với nhiều tác phẩm văn học cổ. Vì vậy, việc rèn luyện để học sinh cảm nhận được giá trị nghệ thuật của các từ ngữ trong các tác phẩm là rất cần thiết và quan trọng. Chính vì lẽ đó, ở đề tài này tôi xin đề cập đến một vài biện pháp giúp học sinh cảm thụ được giá trị một số từ ngữ nghệ thuật trong “Truyện Kiều”. Từ đó, học sinh có thể tự mình phân tích tác phẩm để thấy rõ giá trị và hạn chế của tác phẩm đó. 2.3. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 2.3.1. Chương trình học: “Truyện Kiều” là sự kết tinh của thiên tài văn học Nguyễn Du, là một tập đại thành về ngôn ngữ. Thế nhưng trong phân phối chương trình THCS môn Ngữ văn lớp 9, 2011-2012, thực hiện theo sự điều chỉnh nội dung dạy học môn Ngữ văn cấp THCS của Bộ GD- ĐT chỉ 6 tiết dành cho việc giảng dạy tác phẩm kiệt xuất này: Hai tiết- giới thiệu về tác giả và tác phẩm; bốn tiết còn lại là các đoạn trích giảng “Chị em Thuý Kiều”, “Cảnh ngày xuân”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Với số tiết ít ỏi này, học sinh mới chỉ nắm bắt được những nét chính về nội dung và một phần rất nhỏ về nghệ thuật của tác phẩm. Học sinh chưa cảm nhận được một cách đầy đủ và sâu sắc giá trị của các từ ngữ nghệ thuật đặc sắc trong “Truyện Kiều”. 2.3.2. Đối tượng môn học Với học sinh lớp 9, trình độ tiếp thu kiến thức có tốt hơn so với học sinh lớp 6,7,8. Tuy nhiên, ở các đoạn trích giảng của “Truyện Kiều”, các em hầu như chỉ học thuộc thơ và hiểu từ ngữ trong tác phẩm rất mơ hồ.Nếu như người giáo viên không giúp học sinh cảm thụ được giá trị của các từ ngữ thì học sinh sẽ không cảm nhận được tác phẩm một cách trọn vẹn. 2.3.3. Đặc điểm tình hình địa phương Trường THCS Thọ Ngọc được đặt trên địa bàn của xã Thọ Ngọc - xã bán sơn địa của huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá. Người dân chủ yếu làm nông nghiệp, việc quan tâm đến con em minh còn hạn chế. Bản thân các em mất nhiều thời gian giúp gia đình công việc, các em còn ham chơi, nhác học, nhác đọc ...Vì vậy vốn ngôn ngữ của ác em là vô cùng nghèo nàn. Trên thực tế đó, cá nhân tôi đã luôn quan tâm đến việc sưu tầm, đọc thêm tài liệu để bổ sung nội dung bài giảng đồng thời nâng cao kiến thức, năng lực cảm thụ tác phẩm cho học sinh để các em có thể vận dụng tốt hơn cách sử dụng từ trong khi nói và viết. 2.4. Biện pháp thực hiện Khai thác văn bản qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ là một phương pháp hay, nếu làm có hiệu quả nó sẽ có tác dụng làm tăng khả năng khám phá, cảm thụ những cái hay cái đẹp của ngôn từ. Qua đó sẽ dần dần hình thành cho học sinh những hứng thú, say mê học môn văn hơn. Khi đó học sinh sẽ không còn thụ động tiếp nhận những kiến thức thầy cô truyền đạt lại mà bị cuốn hút vào những hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và hướng dẫn. Từ đó học sinh sẽ chủ động tham gia vào quá trình nhận thức và có những ý kiến cá nhân của mình về các vấn đề được đặt ra trong tác phẩm, các em sẽ tự mình khám phá những chân trời kiến thức mới. Chính vì vậy, trong đề tài này tôi mạnh dạn đưa ra một vài biện pháp giúp học sinh cảm thụ giá trị của một số từ ngữ nghệ thuật qua các đoạn trích giảng “Truyện Kiều” trong chương trình Ngữ văn 9. 2.4.1. Trau dồi vốn hiểu biết cho học sinh: *Xét về mặt trang bị “vốn”, phần trang bị vốn thứ nhất (vốn sống, vốn văn hóa) trong văn học cho học sinh nói chung và học sinh lớp 9 nói riêng là trang bị tri thức văn hóa Như chúng ta đã biết, mỗi tác phẩm đều ra đời trong những hoàn cảnh nhất định một đi không trở lại. Vì vậy để học sinh nắm được các từ ngữ trong “Truyện Kiều” một cách chính xác và đầy đủ nhất, giáo viên cần giúp các em hiểu rõ hơn thời đại tác giả Nguyễn Du sống, biến cố lịch sử nào ảnh hưởng đến cuộc đời ông từ đó ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác thơ văn của tác giả ra sao? Cụ thể: - Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về thời đại Nguyễn Du sống (cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX): + Xét trên bình diện hệ thống các sự kiện, bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam thời Lê Mạc, Nguyễn Sở đầy rẫy những bất ngờ. Tính chất và quy mô của những xung đột không thể dung hòa. Giai cấp phong kiến tham bạo, tranh bá Đế vương, chém giết tàn bạo lẫn nhau. Cuộc đối đầu giữa hai dòng họ: Trịnh ở Đàng Ngoài và Nguyễn ở Đàng Trong kéo dài hơn hai thế kỷ có lúc gây ra cái họa “nồi da nấu thịt, cốt nhục tương tàn”[1] + Ở Đàng Ngoài, phủ chúa lấn át cả cung vua, củng cố thế lực và ăn chơi thỏa sức. Việc mua quan bán tước được chấp nhận. Kiêu binh, chưa một thời nào có, gây họa cho xã tắc, kỷ cương. Còn ở Đàng Trong chính quyền triều Nguyễn được thiết lập với nhiều chính sách chuyên chế tàn bạo. Ngay trong tổ chức và cơ cấu cồng kềnh của nó đã nuôi dưỡng và mở đường cho tệ nạn tham ô. Theo nhận xét của Lê Quý Đôn thì bọn chúng “coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn”.[1] Nhìn chung ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, giai cấp phong kiến đã tự đào hố chôn mình do kết quả của hai cách cai trị: cắt đất, tranh quyền và hà hiếp, bóc lột nhân dân. Vì vậy đây còn là thời đại bùng nổ của các cao trào nông nhân khởi nghĩa mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị, thống nhất đất nước, đánh thắng quân Thanh xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc. Có thể nói thời đại Nguyễn Du sống là thời đại xã hội phong kiến khủng hoảng trầm trọng “giống như một tia nắng cuối chiều”. Do vậy mà những gắng gỏi dù rất kiệt xuất như phong trào Tây Sơn cũng chỉ là “một tia chớp lóe lên rồi hoàng hôn từ từ buông xuống”. Đó là một xu thế khách quan không gì đảo ngược được. [2] Từ việc giúp học sinh nắm được những nét cơ bản về thời đại Nguyễn Du sống, tôi giải thích cho các em thấy được: Bối cảnh xã hội với nhiều biến động dữ dội, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại ấy là cơ sở sâu xa làm xuất hiện những quan niệm mới về dân sinh, xã hội, con người, trong đó có trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Điều này lý giải vì sao “Truyện Kiều” có giá trị đề cao con người, đề cao cuộc sống trần tục và đòi giải phóng con người, đồng thời chống lại các thế lực phong kiến trà đạp hạnh phúc của con người, tình cảm con người. - Về cảnh đời Nguyễn Du: + Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm 1765 âm lịch, mất ngày 10 tháng 8 năm 1820. Tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. + Ông sinh ra trong một gia đại đình quý tộc, một dòng họ nổi tiếng về tước vị và văn chương. Cha và anh Nguyễn Du đều làm đến chức Tể tướng thời Hậu Lê. Dòng họ của Nguyễn Du có nhiều người làm văn viết sách. + Tuy xuất thân trong một gia đình đại quý tộc nhưng do biến động xã hội, gia đình này cũng thăng trầm sa sút. Bản thân Nguyễn Du 10 tuổi đã mồ côi cha, 12 tuổi mồ côi mẹ, Nguyễn Du phải sống với anh là Nguyễn Khản nên cuộc đời ông đã trải qua những năm tháng gian truân, trôi dạt, vất vả, long đong. Do đó vốn sống của nhà thơ trở nên phong phú, rất có ích cho sáng tác văn học. + Tâm trạng của Nguyễn Du rất phức tạp, ông muốn “phù Lê chống Tây Sơn nhưng không thành. Năm 1776, ông có ý định vào Nam giúp Nguyễn Ánh nhưng bị bắt giam ba tháng rồi được tha. Sau ông có ra làm quan dưới triều Nguyễn (thời Gia Long) nhưng tâm trạng luôn u uất “Rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện” (lời của Gia Long quở trách Nguyễn Du). Ông đã từng làm quan giám khảo trường thi Hương, từng đi xứ sang Trung Quốc. Vào ngày 10 tháng 8 năm 1820, ông đột ngột mất trong một nạn dịch ghê gớm chết hàng vạn người. Trải qua “bao cuộc bể dâu”, tiếp xúc với những cảnh đời bi thảm trong cuộc sống và qua sách vở, Nguyễn Du chỉ giữ lại cho mình một trái tim yêu thương vô hạn đối với con người và cuộc sống. - Về xuất xứ lai lịch của Truyện Kiều: + Nguyễn Du viết truyện Kiều vào đầu thế kỷ XIX (1805 -1809) dựa vào tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc. + Truyện Kiều là tên thường gọi căn cứ vào hình tượng của nhân vật trung tâm. Còn ý đồ sáng tác của Nguyễn Du có lẽ gửi vào tên gốc ban đầu “Đoạn trường Tân Thanh” ( tiếng nói mới về nỗi đau như đứt từng khúc ruột). Giúp học sinh nắm được hoàn cảnh ra đời của “Truyện Kiều” là bước đầu người giáo viên giúp em hiểu được ý tình của tập truyện Nôm này và các em cũng thấy được tài năng sáng tạo kiệt xuất của Nguyễn Du. Từ một cuốn tiểu thuyết viết bằng văn xuôi (gồm 20 hồi) của Trung Quốc, ông đã tái tạo thành một truyện thơ Nôm của Việt Nam. Ông chuyển chủ đề “Tình và Khổ” của Kim Vân Kiều truyện sang chủ đề “Tài và mệnh” trong truyện Kiều. Với cảm hứng nhân đạo cao xuất phát từ cuộc sông Việt, con người Việt, “ Truyện Kiều” xứng đáng là sáng tác văn chương đích thực, là tập “ đại thành ngôn ngữ” của Nguyễn Du [1]. * Trang bị phần vốn thứ hai đó là vốn tri thức ngôn ngữ ; tri thức về các ước lệ nghệ thuật văn chương qua giờ văn học (về “ Truyện Kiều”). - Trước hết giáo viên qua giờ dạy văn học (về “ Truyện Kiều”) cung cấp cho học sinh vốn từ phong phú, cho học sinh cảm nhận thấy đúng, hợp và sâu sắc các từ ngữ nghệ thuật trong tác phẩm (hiểu giá trị nhiều mặt của từ), từ đó biết được cách dùng từ của tác giả trong tác phẩm. Ví dụ : để chỉ nước mắt của Thúy Kiều trong “ Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã dùng rất nhiều từ ngữ cùng với sắc thái nghĩa chung : nước mắt của người đẹp nhưng xét mức độ ở mỗi hoàn cảnh khác nhau. Khi nhấn mạnh người đẹp khóc thảm thiết, nhà thơ dùng : “ mạch tương” (“ Chưa xong điều nghĩ dạt dào mạch tương”), khi người đẹp đau khổ mà vẫn đẹp nhưng âu sầu, nhà thơ lại viết : “ Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Và khi đau đớn vì giận mình đã giết chồng (Từ Hải) với nỗi buồn đau bao trùm thì nước mắt của nàng Kiều lại là “Dòng thu như xối cơn sầu” [2]. Trong đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều”, cái tài của Nguyễn Du là đã đảo ngược một cách dùng từ thông dụng : biến “ điểm trắng” thành “trắng điểm”, chỉ thay đổi một chút đó thôi, công việc đơn giản mà ngoài Nguyễn Du không ai làm được. Trong sáng tạo thơ ca, người ta có thể “ chết” vì một từ mà cũng có thế “ sống” vì một từ là thế. Nếu viết “ điểm trắng” thì không sai, ý thơ, âm điệu thơ không hề thay đổi. Nhưng đó là cách viết “ non tay”, cách vẽ tranh của nghệ nhân bắt chước mà chưa có cái “ thần”. Viết “ trắng điểm” tạo nên yếu tố bất ngờ, cành lê như đem vào màu trắng, màu sắc của sự tinh khôi bằng bàn tay vô hình của tạo hóa. Nó đang chăm chút tô điểm, không cầu kì trau chuốt mà rất ý nhị. “ Điểm” ở đây là điểm xuyết, nghĩa là thêm vào, chỉ một chút thôi mà gương mặt của cành lê không còn là chính nó. “ Trắng điểm” và “ điểm trắng” chỉ hơn nhau một sự lung linh nho nhỏ mà đã là hai thế giới rất xa nhau. Đọc hai câu thơ tuyệt bút của Nguyễn Du : “ Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”, tuy không tả mặt biển mà ta cứ như dập dờn, say giữa những con sóng đung đưa cỏ xanh hoa trắng. Mùa xuân đối với một năm giống như bông hoa phong nhụy mơ màng, ấp ủ biết bao, hy vọng biết bao, nó là một nụ cười chúm chím, một thứ “ hương thầm”. Hay trong đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”, với ngôn ngữ giàu chất tạo hình, Nguyễn Du đã tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và hoạt cảnh du xuân bằng một loạt từ ghép là danh từ (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân), động từ (sắm sửa, dập dìu), tính từ (gần xa, nô nức) và cách nói ẩn dụ “ nô nức yến anh”làm hiện lên trước mắt người đọc động thái tâm trạng của những đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én chim oanh bay ríu rít, những người đi quét tước, sửa sang phần mộ, viếng mộ người thân. Trong đoạn trích này, giáo viên cũng cần chú ý đến hệ thống từ láy mà tác giả sử dụng để phân tích cho học sinh thấy rõ. Những từ láy “ tà ta”, “ thanh thanh”, “nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đặc biệt, hai chữ “ nao nao” đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật, diễn tả sự xúc động đến rưng rưng “ Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người” (Truyện Kiều). Cảm giác bâng khuâng xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra đã xuất hiện. Dòng nước uốn quanh “ nao nao” như báo trước ngay sau lúc này thôi Thúy Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh “ phong tư tài mạo tót vời” Kim Trọng. Bi kịch và hạnh phúc cùng đến với Thúy Kiều ở buổi “ thanh minh trong tiết tháng ba”. Trong đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”, giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh thấy dụng ý dùng từ của Nguyễn Du. Hai chữ ” khóa xuân” cho thấy nàng Kiều đang bị giam lỏng. Chữ “ xuân” mang nhiều hàm nghĩa : nói về Thúy Kiều, gửi cả tuổi thanh xuân, xuân sắc của nàng. Hay ở câu thơ “ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, “ tấm son” có thể đó là chỉ tấm lòng nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi quên, hoặc cũng có thể là tấm lòng trong trắng của Kiều bị dập vùi hoen ố biết bao giờ gột rửa. Rõ ràng Nguyễn Du đã rất hiểu được giá trị của mỗi từ mình dùng trong từng văn cảnh, vì vậy sức gợi cảm của nó càng đạt đến đỉnh cao. Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét : Nguyễn Du có tài lột tả cái thần của nhân vật chỉ bằng một từ tiêu biểu như từ “ Lẻn” khi miêu tả Sở Khanh (Một tên chuyên lừa gạt kiếm lời) ; từ “ Ngây” khi miêu tả Hồ Tôn Hiến (Một tên quan dâm ô bỉ ổi) hay từ “ Tót” với Mã Giám Sinh (Một tên buôn người vô lương hèn hạ). Đó là những chữ “ báu”, những “ Nhãn tự” ngôn từ “ Truyện Kiều” mà người giáo viên cần đi sâu phân tích để dẫn dắt học sinh tìm hiểu tác phẩm. Đặc điểm lớn nhất trong sự kết hợp vận dụng hệ thống từ ngữ dân tộc và hệ thống từ ngữ Hán – Việt cùng sự phát triển có tính quy luật về phương diện sử dụng ngôn ngữ trong “ Truyện Kiều” là số lượng “ có tính áp đảo” của ngôn ngữ dân tộc và sự Việt hóa hệ thống từ ngữ Hán – Việt cũng như điển cố thi liệu Trung Quốc. Trong đoạn trích “ Kiểu ở lầu Ngưng Bích”, ta thấy những thi liệu, điển cố được Nguyễn Du sử dụng ở đây đã xác định hai mối quan hệ tình cảm khác biệt của Kiều. Với Kim Trọng là “ dưới nguyệt chén đồng”, “ tấm son gột rửa” ; còn khi nói về cha mẹ lại là “ quạt nồng ấp lạnh”, “ sân Lai”, “ gốc tử”. Cũng là nỗi nhớ thương nhưng Thúy Kiều nhớ về Kim Trọng khác khi nhớ về cha mẹ, chứng tỏ Nguyễn Du không chỉ có sự cảm thông lạ lùng đối với nỗi lòng nhân vật mà còn có “ kì tài diệu bút” để thể hiện hợp lí và tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm vô cùng đa dạng, phong phú của đời sống tâm hồn con người. Đây là cơ sở giúp giáo viên khi dạy một tiết văn bản cần phải biết lựa chọn từ ngữ mà tập trung phân tích để từ đó có khả năng gây hứng thú, rung cảm đối với học sinh và đồng thời cũng tác động tới sự lĩnh hội nhận thức của các em. Ngoài ra, người giáo viên cũng cần chú ý giúp học sinh có những hiểu biết nhất định về các ước lệ nghệ thuật ngôn ngữ, nghệ thuật văn học. Chẳng hạn : Để gợi tả vẻ đẹp của Kiều, Nguyễn Du sử dụng rất nhiều hình tượng nghệ thuật ước lệ. Hình ảnh ước lệ “ làn thu thủy” - làn nước mùa thu dợn sóng – gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. Còn hình ảnh ước lệ “ nét xuân sơn” - nét núi mùa xuân xanh tươi – lại vẽ lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Thực ra, bút pháp ước lệ nghiêng về nghệ thuật gợi, tác động tới người đọc thông qua sự phán đoán, trí tưởng tượng chứ không miêu tả cụ thể, tỉ mỉ. Bên cạnh đó, Nguyễn Du còn sử dụng ý thơ cổ : “ Một hai nghiêng nước nghiêng thành” (Thơ của Lí Diên Niê
Tài liệu đính kèm:
- skkn_huong_dan_hoc_sinh_cach_khai_thac_nghe_thuat_ngon_tu_qu.doc