SKKN Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị Tại Trường Tiểu Học Nga Thanh mà nơi tôi công tác

SKKN Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị Tại Trường Tiểu Học Nga Thanh mà nơi tôi công tác

Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở nhân cách con người. Trong các môn học ở tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí rất quan trọng vì: Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán có rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác và học tiếp Toán ở Trung học. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.

Muốn học sinh Tiểu học học tốt môn Toán thì mỗi người giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.

Muốn giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới một cách tốt nhất người giáo viên cần phải có phương pháp giảng dạy và đổi mới các phương pháp sao cho phù hợp. Muốn làm được việc này ta phải dày công nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo để giảng dạy có hiệu quả.

Qua nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu từ các phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng và đặc biệt từ thực tế việc dạy học, bản thân tôi nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề không thể không trăn trở. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn tỏ ra chần chừ, không thật mặn mà với phương pháp mới và thiếu sự quyết liệt trong quá trình thực hiện đổi mới. Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư nghiên cứu việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với môn Toán tôi đã đi sâu nghiên cứu tôi mong muốn có những phương pháp thật hiệu quả “Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị” Tại Trường Tiểu Học Nga Thanh mà nơi tôi công tác.

 

doc 24 trang thuychi01 5512
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị Tại Trường Tiểu Học Nga Thanh mà nơi tôi công tác", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở nhân cách con người. Trong các môn học ở tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí rất quan trọng vì: Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán có rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác và học tiếp Toán ở Trung học. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt môn Toán thì mỗi người giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Muốn giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới một cách tốt nhất người giáo viên cần phải có phương pháp giảng dạy và đổi mới các phương pháp sao cho phù hợp. Muốn làm được việc này ta phải dày công nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo để giảng dạy có hiệu quả.
Qua nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu từ các phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng và đặc biệt từ thực tế việc dạy học, bản thân tôi nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề không thể không trăn trở. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn tỏ ra chần chừ, không thật mặn mà với phương pháp mới và thiếu sự quyết liệt trong quá trình thực hiện đổi mới. Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư nghiên cứu việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với môn Toán tôi đã đi sâu nghiên cứu tôi mong muốn có những phương pháp thật hiệu quả “Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị” Tại Trường Tiểu Học Nga Thanh mà nơi tôi công tác.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 
- Tìm hiểu những vấn đề về đổi mới dạy học nói chung và giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị trong môn Toán nói riêng.
- Giúp học sinh phát huy tính tự chủ, sáng tạo cho học sinh lớp 3 trong giải toán, từ đó làm nền tảng để các em phát tính tích cực trong toán học trong các cấp học tiếp theo.
- Vận dụng phương pháp dạy học giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị để giúp học sinh nắm vững kiến thức môn Toán lớp 3. 
- Giúp người giáo viên xác định đúng vị trí, trách nhiệm của mình trong công tác ''trồng người'' nhằm đem lại hiệu quả học tập cao nhất đối với học sinh. 
- Dựa trên thực trạng dạy và học môn Toán ở lớp 3 nói chung, dạy học sinh giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng, tôi muốn giúp các em nắm chắc được cách giải dạng toán này một cách sâu sắc, tránh không còn bị nhầm lẫn. Từ đó các em có vốn kĩ năng tính toán chính xác ở những lúc cần thiết trong cuộc sống, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Tạo cho các em có tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Học sinh lớp 3A trường Tiểu học Nga Thanh năm học 2017 - 2018.
- Đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Nga Thanh
- Phương pháp dạy học giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị để giúp học sinh nắm vững kiến thức môn Toán lớp 3. 
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
 Khi tiến hành nghiên cứu, tôi thường sử dụng các phương pháp sau: 
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên, chương trình liệu bồi dưỡng giáo viên, sách tham khảo. 
- Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp.
- Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả.
+ Kiểm tra chất lượng qua các lần kiểm tra, thực hành;
+ Thống kê kết quả ở mỗi lần kiểm tra, thực hành.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
 Quá trình dạy học Toán 3 phải góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa học, sáng tạo cho học sinh. Cho nên, giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ năng vấn đề đó, huy động các kiến thức và các công cụ đã có để tìm ra con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong qua trình giải quyết vấn đề, diễn đạt các bước đi trong cách giải, tự mình kiểm tra lại các kết quả đã đạt được, cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải. Tuy nhiên, để tổ chức được các hoạt động học tập, giáo viên cần xác định được: Nội dung toán cần cho học sinh lĩnh hội là gì? Cần tổ chức các hoạt động như thế nào? Mặt khác, nội dung dạy giải toán ở lớp 3 được sắp xếp hợp lí, đan xen với mạch kiến thức khác, phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3. Dạy học giải toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và phát triển trình độ tư duy của học sinh. Các em biết phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định. 
 Tuy nhiên, giáo viên phải chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động theo chủ đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân học sinh “ khám phá” Tự phát hiện và tự giải quyết bài toán thông qua việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới, với các kiến thức liên quan đã học, với kinh nghiệm của bản thân. Đó là các cơ sở để các em học giải tốt dạng toán rút về đơn vị nói riêng. Năm học 2017 - 2018, tôi đặc biệt đã chú trọng đến phương pháp dạy dạng toán: “Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị” ở lớp 3. Mục đích chính là giúp các em có một kĩ năng giải toán và phân loại dạng toán tốt, tạo cơ sở tốt cho các em học tốt dạng toán về đại lượng tỉ lệ thuận và đại lượng tỉ lệ nghịch sau này. Thực chất ở dạng bài toán này, chúng ta đã phân loại cho các em thành hai kiểu bài theo chương trình học. Cho nên cái chính là tôi muốn giúp các em không những có phương pháp tốt giải hai kiểu bài này mà còn giúp các em có kĩ năng nhận biết, so sánh, đối chiếu sự giống nhau và khác nhau ở hai kiểu bài, từ đó các em tránh được nhầm lẫn đáng tiếc xảy ra. Vậy nên, chúng ta phải có phương pháp khéo léo phù hợp với quá trình nhận thức của các em, giúp các em nhẹ nhàng tiếp thu, không gò bó, nhớ và khắc sâu các kĩ năng giải dạng toán này. 
 	Để thực hiện được mục tiêu của mình đề ra, tôi đã lập kế hoạch về thời gian và nội dung thực hiện theo từng bước sau: 
*Bước 1 : Tập hợp lại kết quả chất lượng sau khi học ở mỗi kiểu bài.
*Bước 2: Tôi tham mưu với ban giám hiệu, tổ chuyên môn, tổ chức chuyên đề phương pháp dạy học kiểu bài 1, để giáo viên khối 3 nắm và truyền thụ cho tất cả học sinh khối 3. 
*Bước 3: Khảo sát chất lượng lấy kết quả ở kiểu bài 1. 
 *Bước 4: Tôi tham mưu với ban giám hiệu, tổ chuyên môn tổ chức chuyên đề phương pháp dạy - học dạng bài 2, để giáo viên khối 3 nắm và truyền thụ cho tất cả học sinh khối 3. 
* Bước 5: Khảo sát chất lượng lấy kết quả rồi đối chiếu. 
* Bước 6: Cùng giáo viên khối 3 thảo luận phân tích, so sánh sự giống nhau và khác nhau ở 2 kiểu bài đó, thống nhất phương pháp rèn luyện cho học sinh, tránh khi giải các em lại nhầm kiểu bài 1 với kiểu bài 2. 
* Bước 7: Lập kế hoạch luyện tập cho tất cả học sinh lớp 3luyện tập 2 dạng bài song song. 
* Bước 8: Khảo sát chất lượng sau một thời gian luyện tập, lấy kết quả đối chiếu. 
* Bước 9: Phân tích, đánh giá, rút ra những kinh nghiệm cho bản khi dạy học dạng toán này. 
2.2. THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ DẠY VÀ HỌC GIẢI BÀI TOÁN LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA THANH.
* Về phía giáo viên
Hầu hết các đồng chí giáo viên trong trường đã tâm huyết với nghề, đã đổi mới phương pháp dạy học. Trong quá trình dạy học đã thực hiện dạy dạng toán “Giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị”, về cơ bản thì ai cũng thể cho rằng các em dễ tiếp thu, dễ làm bài, dễ nhớ, ít sai. Nhưng đi sâu hơn nữa, theo cái nhìn chủ quan của tôi, với dạng toán này các em cũng có những nhầm lẫn đáng tiếc nếu như các em không nắm chắc đặc điểm cơ bản, phương pháp giải cơ bản của hai kiểu bài trong dạng toán này. Nếu hướng dẫn học sinh từng kiểu bài một trong một tiết thì các em làm bài gần như theo khuôn mẫu, ít sai sót. Nếu hướng dẫn học sinh luyện tập song song cả hai kiểu bài hoặc học xong cả hai kiểu bài rồi, các em mà không nắm vững sẽ sai nhầm dễ dàng. Điều này sẽ xảy ra với các em lực học trung bình, trung bình yếu. 
 	Nhưng, vẫn còn một số đồng chí chưa thể đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn dạy học hiện đại. Trong mỗi tiết dạy vẫn còn nói nhiều, về kiến thức còn ôm đồm và hay làm thay công việc của học sinh. Việc thay đổi hình thức chưa được chú trọng, phương pháp dạy cho học trong mỗi tiết học chưa sinh động sôi nổi, chỉ cần dạy đúng, đủ nội dung là được. Dẫn đến hiệu quả giờ học Toán chưa cao, chưa phát huy hết khă năng tư duy của mỗi học sinh.
 * Về phía học sinh: 
Trong năm học này tôi trực tiếp giảng dạy các em học sinh lớp 3 Môn Toán nói chung và phần giải toán nói riêng, tôi thấy các em có một thói quen không tốt đó là: đọc đầu bài qua loa, sau đó giải bài toán ngay, làm xong không cần kiểm tra lại kết quả, cho nên khi trả bài các em mới biết là mình sai. Đối với dạng toán này, khi giáo viên hướng dẫn xong kiểu bài 1, các em làm bài khá tốt, ít nhầm lẫn, nhưng còn sai nhiều trong tính toán, đến khi dạy xong kiểu bài 2, các em làm bài có phần nhầm lẫn nhiều hơn, nhiều em thực hiện ở các bước 2 đáng lẽ là phép chia thì các em lại làm phép nhân ( giống ở kiểu bài 1). 
Để nắm rõ được thực trạng học sinh lớp 3 giải dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị tôi đã tiến hành ra hai bài toán, thuộc hai kiểu bài của dạng toán rút về đơn vị sau đó tôi nhờ giáo viên khối 3 của trường tôi đang trực tiếp giảng dạy cho các em làm bài trong thời gian là 20 phút. Đề bài như sau.
 Đề bài: 
*Bài toán 1: 
Một cửa hàng có 6 bao gạo chứa được 36 kg gạo. Hỏi 4 bao gạo như thế có thể chứa được bao nhiêu ki lô gam gạo? 
* Bài toán 2: 
 Có 42 lít dầu đựng vào 6 can. Hỏi có 84 lít dầu thì cần có bao nhiêu can như thế để đựng? 
 Sau khi chấm bài, tôi nhận thấy kết quả các em làm bài như sau: 
 - Có nhiều em làm đúng cả 2 bài. 
 - Một số em làm nhầm ở bước 2 từ kiểu bài 1 sang kiểu bài 2 và ngược lại. 
- Một số em có tính sai. 
- Còn một vài em sai cả 2 bài. 
* Kết quả cụ thể: 
Tổng số học sinh
Điểm 9 - 10
Điểm 7 – 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
32
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
2
6,25
6
18,75
16
50
8
25
   - Từ kết quả khảo sát cho thấy, việc nắm bắt kiến thức môn Toán của các em còn nhiều điều bất cập. Qua tìm hiểu, tôi tìm ra nguyên nhân chủ yếu là:
-Trong quá trình dạy học, người giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm vững được lượng kiến thức. 
- Một số giáo viên chưa đầu tư, các kiến thức liên quan đến bài giảng, chưa biết sử dụng bài trước để giới thiệu dẫn dắt lôi cuốn học sinh một cách hấp dẫn vào bài mới nhằm khắc sâu kiến thức bài cũ và tạo sự liên kết mạch kiến thức cho các em. 
- Học sinh chưa có ý thức tự học, chưa có kĩ năng hợp tác nhóm. Các em còn thụ động trong học tập. Còn chờ thầy cô giảng bài mà chưa chịu khó tìm tòi để phát hiện kiến thức mới.
- Nguyên nhân có kết quả như vậy là do phần lớn các em còn chủ quan khi làm bài, chưa nhớ kĩ các phương pháp giải dạng toán này. Mặt khác, cũng có thể là các em chưa được củng cố rõ nét về 2 kiểu bài trong dạng toán này nên sự sai đó không tránh khỏi. 
- Xuất phát từ tình hình thực tế, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp giúp các em học sinh lớp 3 “Giải tốt dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị”. Mục đích chính là giúp cho các em nắm được các phương pháp giải toán nói chung, phương pháp giải dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị nói riêng. Làm cho các em biết chủ động thực hiện giải toán nhằm nâng cao chất lượng học sinh trong nhà trường.
 2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 - Muốn cho học sinh giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị, trước tiên chúng ta phải hướng dẫn các em nắm chắc được những bước cần thực hiện khi giải toán nói chung đã. 
Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán: 
 - Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: 
 * Bước 1: Đọc kĩ đề toán. 
* Bước 2: Tóm tắt đề toán. 
 * Bước 3: Phân tích bài toán. 
 * Bước 4: Viết bài giải. 
 * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. 
 Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: 
a. Đọc kĩ đề toán:
Tôi yêu cầu học sinh đọc ít nhất 3 lần mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản sau. 
- Một là. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, 
- Hai là. “Những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm .
- Ba là. Những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số. 
 Tôi tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, các em phải phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên quan đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi và phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. 
 b. Tóm tắt đề toán:
Sau khi đọc kĩ đề toán rồi, các em phải biết lược bớt một số câu chữ, để làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và phải tự biết cách nhìn vào tắt ấy để nhắc lại được đề toán. 
 Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ dễ dàng giải toán nhanh và chính xác. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách tóm tắt sau tới học sinh: 
* Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. 
* Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu. 
* Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. 
* Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng. 
* Cách 5: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven. 
* Cách 6: Tóm tắt bằng kẻ ô. 
 Tuy nhiên tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào dễ hiểu nhất, rõ nhất, điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài. 
c. Phân tích bài toán: 
Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường: 
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì? 
 - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? 
 - Cái này biết chưa? 
 - Còn cái này thì sao? 
 - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào? 
 Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. 
d. Viết bài giải: 
Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. 
e. Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: 
 Trong quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi:“ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước: 
 - Đọc lại lời giải. 
 - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
 - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. 
 - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. 
 Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. Tôi đã tạo điều kiện để học sinh được luyện tập nhiều trong các giờ học . 
Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân ( kiểu bài 1): 
 Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau: 
a. Kiểm tra bài cũ: 
Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần truyền đạt, tôi ra đề như sau:“Mỗi can chứa được 5 lít nước mắm. Hỏi 8 can như vậy chứa được bao nhiêu lít mắm?” 
 Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau: 
 Bài giải. 
 Bảy can như vậy chứa được số lít nước mắm là: 
 5 x 8 = 40 ( l) 
 Đáp số: 40 l nước mắm. 
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán. 
b. Bài mới: 
* Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới thiệu bài ngày hôm nay các em được học. 
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 40 l nước mắm chia đều vào 8 can. Hỏi mỗi can có mấy lít nước mắm ? 
 - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đầu bài( 3 em). 
 - Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán (sử dụng phương pháp hỏi đáp): 
 + Bài toán cho biết gì? (40 lít nước mắm. đựng đều vào 8 can). 
 + Bài toán hỏi gì? (1 can chứa bao nhiêu lít nước mắm ). 
 + Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng: 
Tóm tắt: 
 8 can: 40 lít
 1 can: ? lít . 
 - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán. 
 - Giáo viên yêu cầu học sinh làm vào bảng con. 
 - Giáo viên đưa bài giải đối chiếu. 
 Bài giải 
 Số lít nước mắm có trong mỗi can là: 
 40 : 8 = 5 (lít) 
 Đáp số: 5 lít nước mắm . 
 - Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít nước mắm ta làm phép tính gì? ( phép tính chia). 
 - Giáo viên giới thiệu. Bài toán cho ta biết số lít nước mắm có trong 8 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít nước mắm trong 1 can, để tìm được số lít nước mắm trong 1 can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần. 
 - Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố như: 
 6 bao: 300kg hoặc 4 túi : 20 kg 
 1 bao:  kg ? 1 túi : kg ? 
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: Có 40 lít nước mắm chia đều vào 8 can. Hỏi 2 can như thế có mấy lít nước mắm ? 
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài ( 3 lần). 
 - Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán - Giáo viên ghi bảng (Phương pháp hỏi đáp). 
Tóm tắt :
 8 can : 40 lít 
 2 can : ? lít. 
 - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: ( Phương pháp hỏi đáp) 
 + Muốn tính được số lít nước mắm có trong 2 can ta phải biết gì ? ( 1 can đựng được bao nhiêu lít nước mắm) 
 + Làm thế nào để tìm được số lít nước mắm có trong 1 can ? (Lấy số lít nước mắm trong 8 can chia cho 8). 
 + Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: . l ? 
 + Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1can. (Lấy số lít nước mắm có trong 1 can nhân với 2). 
 - Một học sinh nêu bài giải. Giáo viên ghi bảng. 
 Bài giải 
 Số lít nước mắmcó trong mỗi can là: 
 40 : 8 = 5 (l) 
 Số lít nước mắm có trong 2 can là: 
 5 x 2 = 10 (l) 
 Đáp số:10 lít nước mắm. 
 - Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít nước mắm trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị. 
 - Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán - kiểu bài 1: 
 Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước: 
+ Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị ( giá trị một phần trong các phần bằng nhau). Thực hiện phép chia. 
+

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giup_cac_em_hoc_sinh_lop_3_giai_tot_bai_toan_lien_quan.doc