SKKN Giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh khi giảng dạy Địa lý 12 - THPT

SKKN Giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh khi giảng dạy Địa lý 12 - THPT

Nhân loại đã bước sang ngưỡng của thế kỷ XXI, thế kỷ mà tri thức, kỹ năng của con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội. Trong hòa nhập với cộng đồng quốc tế, để có thể đứng vững và vươn lên được, chúng ta không những đựơc học hỏi kinh nghiệm, áp dụng những thành tựu khoa học thế giới mà còn phải sáng tạo, tìm những con đường riêng phù hợp với hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam.

Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kỹ năng sống đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông do Bộ giáo dục và đào tạo chỉ đạo, tôi mạnh dạn đề cập tới việc làm thế nào để “Giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh khi giảng dạy Địa lí 12 – THPT”

 

doc 21 trang thuychi01 6401
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh khi giảng dạy Địa lý 12 - THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
-------------------------------------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC MỘT SỐ KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH KHI GIẢNG DẠY ĐỊA LÝ 12 - THPT 
Người thực hiện: ĐÀO THANH TÂM
 	Chức vụ: Giáo viên
 	SKKN môn: Địa lý
THANH HÓA NĂM 2018
I. Më ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài 
Nhân loại đã bước sang ngưỡng của thế kỷ XXI, thế kỷ mà tri thức, kỹ năng của con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội. Trong hòa nhập với cộng đồng quốc tế, để có thể đứng vững và vươn lên được, chúng ta không những đựơc học hỏi kinh nghiệm, áp dụng những thành tựu khoa học thế giới mà còn phải sáng tạo, tìm những con đường riêng phù hợp với hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam. 
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kỹ năng sống đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông do Bộ giáo dục và đào tạo chỉ đạo, tôi mạnh dạn đề cập tới việc làm thế nào để “Giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh khi giảng dạy Địa lí 12 – THPT”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với chương trình học phổ thông, môn Địa lí có nhiều ưu điểm áp dụng các phương pháp đổi mới trong giảng dạy vừa cung cấp kiến thức vừa hình thành năng lực cho học sinh, đặc biệt năng lực gắn bó chặt chẽ giữa lí thuyết và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đào tạo những lao động không chỉ có kiến thức mà còn có năng lực thực hành. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong dạy học Địa lí Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn, đảm bảo học đi đôi với hành. Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kỹ năng sống các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. 
Đồng thời cũng giúp cho giáo viên lựa chọn được phương pháp giảng dạy bộ môn Địa lí có hiệu quả gắn lý thuyết với thực hành, đổi mới phương pháp giảng dạy đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp lớp 12 trường THPT Nguyễn Trãi năm học 2017-2018
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Trong quá trình nghiên cứu tôi đã vận dụng phối hợp các phương pháp, trong đó có các phương pháp chủ yếu sau:
- Thao giảng, dạy thử nghiệm về đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, dự giờ trao đổi rút kinh nghiệm.
	- Hướng dẫn học sinh tự học bằng cách: sưu tầm tranh ảnh minh họa
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1.Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế" và "Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân". Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một công việc hết sức trọng đại. 
 Trước nhu cầu tất yếu của xã hội, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông nói chung, môn Địa lí nói riêng là rất cần thiết nhằm đảm bảo mục tiêu, nội dung dạy học hiện nay theo hướng tích cực hóa hoạt động nhằm chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. 
2.1.2. Cơ sở khoa học của đổi mới phương pháp dạy học giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh THPT.
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm kỹ năng sống (KNS). Tuy nhiên, có thể tiếp cận khái niệm KNS qua 4 trụ cột của giáo dục theo UNESCO: Học để biết (learning to know), học để khẳng định bản thân (learning to be), học để chung sống (learning to live together) và học để làm việc (learning to do).Tiếp cận theo 4 trụ cột trên thì KNS có thể hiểu là: kỹ năng học tập, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, kỹ năng làm việc.Tuy nhiên, kỹ năng sống (life skills) có thể hiểu là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác, với xã hội và khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.Có thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.
Hiện nay, ở nước ta nội dung giáo dục kĩ năng sống là nội dung mới thực hiện thông qua nhiều chương trình, dự án như “Giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục phòng chống ma tuý..”. 
_______________________________________
Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 1, 2 và số 7
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kỹ năng sống đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang đặc biệt rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông do Bộ giáo dục và đào tạo chỉ đạo. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thuận lợi
 Nội dung giáo dục kỹ năng sống đã được tích hợp trong một số môn học và giáo dục có tiềm năng trong trường phổ thông trong đó môn Địa lí có nhiều khả năng để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, bởi:
 + Mục tiêu của bộ môn đã tạo cơ hội tốt cho việc giáo dục kỹ năng sống. 
 + Nội dung môn địa lý cung cấp cho học sinh một số vấn đề của thế giới đương đại cả những mặt tích cực và tiêu cực; một số vấn đề về tự nhiên và xã hội Việt Nam, thông qua những nội dung này có thể giáo dục cho các em một số kỹ năng sống như: Kỹ năng ứng phó và tự bảo vệ trước những thiên tai, những hiểm họa trong xã hội có nguy cơ ảnh hưởng tới cuộc sống lành mạnh và an toàn của các em; đồng thời cũng hình thành ở các em kỹ năng cảm thông, chia sẻ với những con người sống ở mọi nơi; kỹ năng tư duy khi phân tích, so sánh, phán đoán; tìm kiếm và xử lý thông tin về các sự vật hiện tượng địa lí. 
 + Một số phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn có nhiều khả năng hình thành và rèn luyện kỹ năng tư duy cho học sinh. Việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa người học, với các phương pháp dạy học tích cực như: Phương pháp dạy học nhóm, giải quyết vấn đề tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề 
Chương trình lớp 12 gồm bốn phần: Địa lí Tự nhiên, Địa lí Dân cư, Địa lí Kinh tế, Địa lí Địa phương với những đặc trưng của Địa lí Việt Nam có ưu thế giáo dục một số kĩ năng sống như: kĩ năng cảm thông, chia sẻ; kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin; kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp
2.2. Khó khăn
	 Một là, cơ sở vật chất của nhà trường mới đáp ứng được cơ bản của nhu cầu dạy và học.
	 Hai là, quan niệm chưa đúng về bộ môn của học sinh coi Địa lí là môn phụ. Vì vậy, thời gian cho học bộ môn chưa nhiều nên công tác giáo dục kĩ năng sống qua các bài học Địa lí trở nên khó thực hiện. 
	Ba là, thời lượng học môn Địa lí lớp 12 mỗi tuần từ 1 – 2 tiết (học kì một là 1 tiết/tuần; học kì hai là 2 tiết/tuần). Thời lượng mỗi tiết chỉ có 45 phút, nên hạn chế thời gian hoạt động của HS. Để giáo dục kĩ năng sống tốt cần cho các em rèn luyện, trao đổi nhiều. Thời gian trên lớp sẽ không có nhiều, mà thời gian tự học ở nhà HS còn phải phân bố cho các môn học khác nên khó có nhiều thời gian để học và rèn luyện các kĩ năng sống. Bên cạnh đó, lớp học được bố trí bàn ngồi nhìn về một phía hướng lên thầy cô, điều này sẽ gây khó khăn khi hoạt động nhóm so với ngồi bàn tròn – bàn tròn để các em luôn trong trạng thái ngang tầm nhau không ai gần trung tâm hơn, HS được ở vị trí gần thầy cô hơn và dễ dàng cho việc nhận xét, trao đổi lẫn nhau, giáo dục kĩ năng sống tốt hơn. 
Bốn là, GV chưa áp dụng các PP mới để DH và không nhằm vào giáo dục kĩ năng sống cho HS. Nhiều GV còn ngại thay đổi cách dạy truyền thống nên không phát huy được tinh thần học tập chủ động, tích cực của HS. 
	Năm là, đối tượng HS lớp 12 ở THPT không phải đều giống nhau về tâm sinh lí và nhận thức, khả năng học tập, hoạt động... Khi GV phân công nhiệm vụ chuẩn bị tìm tòi tài liệu ở nhà, nhiều em hạn chế khả năng và năng lực sẽ không hoàn thành được nhiệm vụ. Mặc dù có được sự hỗ trợ từ GV, tuy nhiên nhiều em nhút nhát sẽ ngại hoạt động, nhất là hoạt động nhóm với các bạn khác. Một số HS không hợp tác với GV, ỷ lại các bạn khi hoạt động nhóm. Vì thế không thể hoàn thành tốt quá trình học. 
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Một số kĩ năng sống cần khai thác để giáo dục cho học sinh khi dạy học Địa lí Việt Nam lớp 12 – THPT. 
a. Kĩ năng tự học, tự nhận thức.
	Tự học là chủ động học tập, tự tìm kiếm tài liệu thông tin mình cần, đưa ra những cách giải quyết khi gặp phải nội dung khó nào đó để rút kinh nghiệm và thu thập nhiều kiến thức. Phương pháp tự học giúp phát triển tiềm năng sáng tạo. Chính điều này cũng tạo động lực thôi thúc con người sáng tạo thêm nữa. 
	Vai trò của giáo viên(GV) vẫn tồn tại trong quá trình học sinh(HS) tiến hành tự học, quá trình học cần có GV hướng dẫn, định hướng cho HS. “Tự học là một vấn đề quan trọng. Bởi vì, đó là nhân tố nội lực quyết định chất lượng học tập, còn hoạt động dạy là ngoại lực có tác dụng định hướng, kích thích, điều khiển và chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình học.”.
______________________________________________
Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 1, 2 và số 8
Ngày nay kiến thức của loài người tăng theo cấp số nhân, quá trình học trên lớp với SGK và bài giảng của GV chưa đủ. Vậy vấn đề đặt ra là học để biết cách học để khi cần tìm kiếm kiến thức là chủ động tìm kiếm được. 
	Kĩ năng tự học, tự nhận thức rất quan trọng, giúp các em chủ động làm chủ kiến thức và học tập tốt hơn. Có kĩ năng tự học giúp HS rèn luyện tính tự giác của bản thân, luôn có ý thức tự giác trong học tập, chủ động làm chủ kiến thức, chủ động nghiên cứu tìm tòi, không bị phụ thuộc. 
	Ví dụ: Bài 8 SGK Địa lí 12 – THPT: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển. HS có kĩ năng tự học là có sự chuẩn bị trước ở nhà, khi biết nội dung trước bài học: đặc điểm tự nhiên cơ bản nhất của biển Đông, ảnh hưởng mạnh mẽ biển Đông đến thiên nhiên đất liền làm cho thiên nhiên nước ta có sự thống nhất giữa đất liền và vùng biển. Học sinh tự tra cứu những thuận lợi và khó khăn của biển Đông mang lại trong phát triển kinh tế-xã hội và trong đời sống, đồng thời đưa ra được những giải pháp khắc phục, giải quyết những khó khănThông qua quá trình đó, HS lần lượt đặt ra vấn đề để tìm hiểu và làm sáng tỏ. Càng hiểu vấn đề càng kích thích các em tìm tòi nhiều nội dung sâu hơn, phát triển kĩ năng nhận thức, sáng tạo 
	Cứ như vậy, khi được trang bị kĩ năng tự học HS sẽ yêu thích bộ môn hơn và rèn luyện cho các em tính tự giác trong học tập, chủ động tiếp thu kiến thức.
b. Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin 
	Học tập Địa lí là biết kết nối, phân tích những thuận lợi khó khăn của tự nhiên, xã hội tác động đến thực trạng phát triển kinh tế., vì vậy những thông tin về thực trạng phát triển kinh tế xã hội địa phương, vùng, đất nước, khu vực và thế giới là những thông tin rất quan trọng. Thông tin có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau. Chất lượng của thông tin thường được đánh giá dựa trên các phương diện chủ yếu sau: + Tính cần thiết + Tính chính xác + Độ tin cậy + Tính thời sự. Với học sinh, thông tin các em tiếp cận thường qua bản đồ, Atlat, tranh ảnh, sách, tài liệu bằng văn bản, kênh truyền thông như đài, báo, mạng internet, gần nhất đó là facebook Để chọn lọc và tích lũy kiến thức, HS cần có kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. Để làm được điều này GV cần hướng dẫn, định hướng cho HS thông qua quá trình dạy học, GV có thể gợi ý tài liệu bước đầu và sau đó HS mở rộng tự tra cứu các tài liệu liên quan, cách xử lí thông tin đúng đắn, xác định tài liệu nào chính thống có thể tham khảo và tài liệu nào là sai lệch, tính chất không đúng đắn cần tránh đi. HS được trang bị kĩ năng này sẽ rất thuận lợi cho các em học tập địa lí, hình thành tư duy địa lí, biết phân tích đánh giá các hiện tượng tự nhiên, kinh tế xã hội, các em sẽ hứng thú, đồng thời kích thích khả năng tự học.
Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là 3, 4 và 6.
	Được giáo dục tốt kĩ năng sống này giúp các em có những kĩ năng xử lí thông tin trong cuộc sống hàng ngày tốt hơn, luôn có thái độ bình tĩnh trước thông tin nhận được, tiến hành xác minh thông tin trước khi đưa ra quyết định. Giúp các em có nhiều quyết định đúng đắn trong cuộc sống, tránh những việc đáng tiếc xảy ra.
c. Kĩ năng xác định mục tiêu và giải quyết vấn đề 	
Việc xác định mục tiêu đúng đắn, chính xác giúp định hướng cho việc học tập được rõ ràng và tập trung. Trong cuộc sống cũng vậy, khi xác định được mục tiêu công việc, hành động, sẽ có cở sở để làm việc, động lực hoàn thành công việc. Từ việc xác định mục tiêu, ta bắt tay vào hành động và giải quyết vấn đề. Từ đó, giúp HS có thể xây dựng những kĩ năng cần thiết: đưa ra được sự lựa chọn tốt nhất trong bất kì hoàn cảnh nào mà các em gặp phải trong cuộc sống, và tiến hành những bước cần thiết để thực hiện quyết định. GV hướng dẫn HS nhận ra vấn đề, phân tích, tìm kiếm tài liệu và đối chiếu, đi tới kết luận, đưa ra biện pháp giải quyết vấn đề một cách tối ưu.	
	Trên cơ sở HS được trang bị kĩ năng xác định mục tiêu, áp dụng vào cuộc sống, các em học cách lên kế hoạch xác định rõ mục tiêu để thực hiện trước khi hành động, hoạt động có mục đích luôn có tỉ lệ thành công cao hơn việc thiếu suy nghĩ khi làm việc. Kĩ năng giải quyết vấn đề trong cuộc sống là việc HS biết đánh giá, liên kết sự việc để đưa ra kết luận: Thấy cảnh bạn bè cãi nhau, người có năng lực giải quyết sẽ can ngăn trước và hỏi rõ nguyên nhân để giải quyết trước khi bênh vực ai đó.
d. Kĩ năng ra quyết định và chịu trách nhiệm 
	Trong cuộc sống rất nhiều trường hợp cần sự quyết định của bản thân. Khi đứng trước tình huống khác nhau, cần có thái độ khác nhau, nhiều người sẽ lúng túng hoặc là lưỡng lự khi bị buộc đưa ra quyết định nên việc GD cho HS kĩ năng này giúp các em rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Nhiều trường hợp các em gặp phải, các em có thể tự giải quyết nhưng nhiều trường hợp các em không đủ kĩ năng về vấn đề đó nên không biết xử lí ra sao. Thông qua các bài học địa lí để cho HS thấy được tầm quan trọng của việc đưa ra quyết định đúng thời điểm. Đồng thời, giáo dục HS kĩ năng đưa ra quyết định đúng, tích cực. Khi đã đưa ra quyết định thì cần biết chịu trách nhiệm với quyết định của mình, nếu quyết định đúng thì phát huy, nếu quyết định sai thì nhận lỗi và sửa chữa. Kĩ năng này đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động nhóm. HS phải đưa ra quyết định cá nhân cho mỗi hoạt động trong nhóm và thống nhất ý kiến sau đó tiến hành hoạt động và chịu trách nhiệm với nhiệm vụ cũng như sản phẩm của mình. Đây cũng là một đức tính về mặt đạo đức trong xã hội mỗi người cần có. 
	Ví dụ: Bài 10 SGK Địa lí 12 – THPT: mục 3. Ảnh hưởng của thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa đến sản xuất và đời sống. Trong quá trình hoạt động nhóm các thành viên phải nhận nhiệm vụ riêng để thực hiện sau đó tập hợp kết quả chung. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhóm tiến hành thảo luận, các thành viên tự thống nhất, đưa ra quyết định chọn lựa nội dung để trình bày trước lớp (nhận xét kết quả của các thành viên, lựa chọn những nội dung làm tốt để báo cáo kết quả nhóm). Sau khi đưa ra quyết định, mỗi thành viên phải có ý thức chịu trách nhiệm trước phần nhiệm vụ của mình. Nếu kết quả tốt thì phát huy, nếu kết quả chưa đúng, chưa đủ thì rút kinh nghiệm, không lảng tránh. 
	Liên hệ trong thực tiễn, khi có kĩ năng ra quyết định và chịu trách nhiệm, HS sẽ sống tốt và có ý nghĩa hơn.
	 Ví dụ, sau khi kết thúc cấp THPT, một số HS quyết định đi học nghề và học nghề mình yêu thích thay vì học lên Đại học. HS đó đã ra quyết định vào thời điểm quan trọng của cuộc đời, để ra được quyết định đó HS đó đã phải tính toán từ trước, nếu mình học nghề luôn thì tương lai ra sao? Liệu tiếp tục học Đại học thì có đủ điều kiện, đam mê không? Sau khi đưa ra quyết định, bản thân chịu trách nhiệm trước việc mình chọn, chấp nhận thất bại nếu xảy ra và sửa đổi, tuy nhiên phải luôn nỗ lực để làm tốt quyết định bản thân đưa ra.
e. Kĩ năng lắng nghe và phản hồi tích cực 
	Lắng nghe ở đây là lắng nghe tích cực - là một phần quan trọng của kĩ năng giao tiếp. Người có kĩ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác. 
	Lắng nghe tốt giúp các em điều hòa được cảm xúc nhất thời. Lứa tuổi THPT thường hành động trước khi suy nghĩ nên sẽ dễ có nhiều xích mích với mọi người. Giáo dục kĩ năng lắng nghe giúp hạn chế được kết quả không mong muốn. 
	Phản hồi tích cực là đối đáp, hay trả lời câu chuyện, hành động của người khác một cách tích cực nhất, hòa dịu nhất. Phản hồi tích cực rèn luyện tính nhẫn nại, tôn trọng bạn bè, góp ý khéo léo. Đây cũng là một phần của giao tiếp. Phản hồi tích cực giúp HS học được nhiều điều tốt ở bạn bè để hoàn thiện bản thân, nhận ra điều chưa tốt để rút kinh nghiệm.
	Ví dụ: Sau khi học nội dung mục 2. Phát triển nền nông nghiệp hiện đại sản xuất hàng hóa góp phần nâng cao hiệu quả của nông nghiệp nhiệt đới(Bài 21. Đặc điểm nền nông nghiệp nước ta) GV tổ chức hoạt động tranh luận để HS có cơ hội thể hiện quan điểm cá nhân. 
Vấn đề tranh luận là: Có ý kiến cho rằng:Phát triển nông nghiệp hàng hóa quá quan tâm đến lợi nhuận nên nông phẩm nước ta hiện nay tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa cao,còn nhiều nông phẩm bẩn. Hãy nhận xét ý kiến trên.
________________________________________________
Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 3, 4 và 5
HS sẽ đưa ra 2 ý kiến: đồng ý và không đồng ý. Sau đó mỗi cá nhân, nhóm sẽ trình bày dẫn chứng để chứng minh cho quan điểm, suy nghĩ của bản thân. HS sẽ học cách lắng nghe quan điểm của bạn một cách tích cực, xem xét cái lí trong đó, tránh việc bảo thủ giữ ý kiến cá nhân, không quân tâm ý kiến người khác. 
Phản hổi tích cực thể hiện sau khi HS nghe ý kiến của bên bạn đối thủ, HS ghi nhận thành tựu và phản hồi lại những vấn đề cho là chưa đúng với có thái độ đóng góp, không phải phản bác khi đưa ra quan điểm đáp trả.
	Trong cuộc sống, HS biết lắng nghe lời nhận xét, lời khuyên của bạn bè, cha mẹ, thầy cô về tính cách của bản thân hay thái độ sống sẽ giúp các em hoàn thiện bản thân hơn, biết cách phản hồi tích cực: cảm ơn lời nhận xét và sẽ sửa đổi bản thân, tránh thái độ ghen ghét, cho là nói xấu và phản ứng lại mạnh mẽ quá, gây rạn nứt mối quan hệ.
f. Kĩ năng giao tiếp, hợp tác 
	Đây là kĩ năng quan trọng và có mối quan hệ với các kĩ năng khác như: lắng nghe và p

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giao_duc_mot_so_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_khi_giang_day.doc