SKKN Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước cho học sinh lớp 12 Trường THPT Lang Chánh (Qua mục 3 - Bài 14: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Sách giáo khoa Địa lí 12, chương trình cơ bản)

SKKN Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước cho học sinh lớp 12 Trường THPT Lang Chánh (Qua mục 3 - Bài 14: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Sách giáo khoa Địa lí 12, chương trình cơ bản)

Như chúng ta đã biết nước đóng vai trò thiết yếu vô cùng quan trọng không chỉ đối với con người mà đối với cả mọi sinh vật trên Trái Đất. Nước cần cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và toàn bộ các mặt khác của cuộc sống. Nói đến vai trò quan trọng của nước không ai có thể phủ nhận. Thế nhưng điều đáng buồn là hàng ngày trên thế giới các vấn đề có liên quan tới nước như “ Thiếu nước sạch toàn cầu – hiểm họa giết chết hàng triệu người”, “4000 trẻ em chết vì thiếu nước sạch mỗi ngày”, “mỗi năm 1,8 triệu trẻ em chết vì thiếu nước sạch” . vẫn diễn ra [4]. Thậm chí ở Việt Nam tình trạng này cũng không hề hiếm và vẫn đang đe dọa tới cuộc sống hàng ngày của người dân như “hơn nửa triệu người Miền Tây thiếu nước ngọt”, “Hà Nội – những dòng sông chết: Sông Tô Lịch nhuộm màu ô nhiễm”, “xâm nhập mặn ở Đồng bằng Sông Cửu Long” .[4] Trước hiểm họa khôn lường như vậy nhưng nhiều người vẫn thờ ơ và ngang nhiên sử dụng nước một cách lãng phí hoặc không biết bảo vệ tài nguyên nước mặc cho cả nhân loại đang nêu cao tinh thần bảo vệ môi trường. Các hành động như vứt rác bữa bãi xuống ao, hồ, sông, suối, hay thải nước thải trực tiếp ra môi trường nước vẫn diễn ra khá phổ biến ở nhiều nơi và gần như trở thành thói quen của nhiều người, nhiều học sinh.

Bản thân là một giáo viên, tôi thực sự cảm thấy buồn và hoang mang khi quê hương Yên Định của mình xảy ra sự kiện “Nhà máy thuốc sâu chôn chất độc xuống lòng đất làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường đất, nước”. Ngay cả địa phương Lang Chánh nơi tôi công tác hiện tượng ô nhiễm nước diễn ra cũng khá nghiêm trọng như vụ việc nước thải ô nhiễm làm cá chết hàng loạt trên sông Âm. Đáng lo ngại hơn khi bản thân vô tình nghe được một câu chuyện buồn của bác nông dân chăn nuôi lợn phải vứt bỏ cả một con lợn nặng 60 – 70 kg bị nhiễm bệnh xuống cả sông Âm thay vì chôn cất nó để tránh dịch bệnh lây lan.

 

doc 19 trang thuychi01 12764
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước cho học sinh lớp 12 Trường THPT Lang Chánh (Qua mục 3 - Bài 14: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Sách giáo khoa Địa lí 12, chương trình cơ bản)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC CHO HỌC SINH LỚP 12 TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH 
(Qua mục 3 – Bài 14: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Sách giáo khoa Địa lí 12, chương trình cơ bản)
 	 	Người thực hiện: Trịnh Thị Vinh
 	Chức vụ: Giáo viên
 	SKKN thuộc lĩnh vực: môn Địa
THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC
NỘI DUNG Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết nước đóng vai trò thiết yếu vô cùng quan trọng không chỉ đối với con người mà đối với cả mọi sinh vật trên Trái Đất. Nước cần cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và toàn bộ các mặt khác của cuộc sống. Nói đến vai trò quan trọng của nước không ai có thể phủ nhận. Thế nhưng điều đáng buồn là hàng ngày trên thế giới các vấn đề có liên quan tới nước như “ Thiếu nước sạch toàn cầu – hiểm họa giết chết hàng triệu người”, “4000 trẻ em chết vì thiếu nước sạch mỗi ngày”, “mỗi năm 1,8 triệu trẻ em chết vì thiếu nước sạch”. vẫn diễn ra [4]. Thậm chí ở Việt Nam tình trạng này cũng không hề hiếm và vẫn đang đe dọa tới cuộc sống hàng ngày của người dân như “hơn nửa triệu người Miền Tây thiếu nước ngọt”, “Hà Nội – những dòng sông chết: Sông Tô Lịch nhuộm màu ô nhiễm”, “xâm nhập mặn ở Đồng bằng Sông Cửu Long”..[4] Trước hiểm họa khôn lường như vậy nhưng nhiều người vẫn thờ ơ và ngang nhiên sử dụng nước một cách lãng phí hoặc không biết bảo vệ tài nguyên nước mặc cho cả nhân loại đang nêu cao tinh thần bảo vệ môi trường. Các hành động như vứt rác bữa bãi xuống ao, hồ, sông, suối, hay thải nước thải trực tiếp ra môi trường nước vẫn diễn ra khá phổ biến ở nhiều nơi và gần như trở thành thói quen của nhiều người, nhiều học sinh. 
Bản thân là một giáo viên, tôi thực sự cảm thấy buồn và hoang mang khi quê hương Yên Định của mình xảy ra sự kiện “Nhà máy thuốc sâu chôn chất độc xuống lòng đất làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường đất, nước”. Ngay cả địa phương Lang Chánh nơi tôi công tác hiện tượng ô nhiễm nước diễn ra cũng khá nghiêm trọng như vụ việc nước thải ô nhiễm làm cá chết hàng loạt trên sông Âm. Đáng lo ngại hơn khi bản thân vô tình nghe được một câu chuyện buồn của bác nông dân chăn nuôi lợn phải vứt bỏ cả một con lợn nặng 60 – 70 kg bị nhiễm bệnh xuống cả sông Âm thay vì chôn cất nó để tránh dịch bệnh lây lan.
Trước thực trạng như trên vậy nhưng nhiều học sinh vẫn tỏ thái độ thờ ơ cho rằng việc vứt rác bẩn xuống nước là điều đương nhiên, là việc vốn đã làm từ xưa nay. Nhiều em chưa thực sự hiểu rõ về vai trò của nước và hậu quả của ô nhiễm nước. Tuy nhiên để thay đổi thói quen và nhận thức đó là cả một quá trình lâu dài, cần có sự góp sức và chung tay của toàn nhân loại. Trong đó việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước cho học sinh luôn là nhiêm vụ quan trọng hàng đầu. 
Hiện nay ở các nhà trường công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh rất được chú trọng. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian nên nội dung giáo dục môi trường còn sơ sài, thường chỉ được lồng ghép trong các môn học mà chưa đi sâu vào từng loại môi trường cụ thể. Đây cũng là lí do để tôi quyết định lựa chọn đề tài: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước cho học sinh lớp 12 Trường THPT Lang Chánh (Qua mục 3 - bài 14 “ Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Sách giáo khoa Địa lí 12, chương trình cơ bản)
1.2. Mục đích nghiên cứu
Giúp học sinh nâng cao hiểu biết về vấn đề ô nhiễm môi trường nước như ô nhiễm nước là gì, nguyên nhân, biểu hiện, thực trạng và hậu quả của ô nhiễm nước.
Đề tài cũng giúp học sinh nhận thức đúng đắn về các hành động của con người trong sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước. Từ đó giúp các em biết cách sử dụng hợp lí và bảo vệ tài nguyên nước.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Đối tượng mà đề tài hướng tới là các học sinh khối 12 thuộc 3 lớp 12A1, 12A2, 12A6 do bản thân tôi trực tiếp đứng lớp giảng dạy. 
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
Để nghiên cứu đề tài này bản thân tôi đã tham khảo nhiều nguồn kiến thức khác nhau từ Internet, và các tài liệu của nhiều tác giả 
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Đề tài có khảo sát một số mẫu nước tại khu vực nhà máy sản xuất giấy Bãi Bùi – Lang Chánh, khu vực sông Âm và một số kênh rãnh nơi các hộ gia đình thải nước thải.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
Đây là phương pháp được áp dụng trong việc thống kê ý thức bảo vệ môi trường nước của học sinh lớp 12 THPT Lang Chánh.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khái niệm môi trường và ô nhiễm môi trường nước
* Môi trường là gì?
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam ngày 29 tháng 11 năm 2005 quy định: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”.[3]
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Ðó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... 
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Ðó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... 
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo...
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển.
* Ô nhiễm môi trường là gì?
Theo Tổ chức Y tế thế giới: “Ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường”.[4]
Theo khoản 6 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005: “Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật”.
* Ô nhiễm môi trường nước là gì?
Hiến chương châu Âu về nước đã định nghĩa: "Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, cho động vật nuôi và các loài hoang dã."[3]
Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất.
Ô nhiễm nước xảy ra khi nước bề mặt chảy qua rác thải sinh hoạt, nước rác công nghiệp, các chất ô nhiễm trên mặt đất, rồi thấm xuống nước ngầm. Hiện tượng ô nhiễm nước xảy ra khi các loại hoá chất độc hại, các loại vi khuẩn gây bệnh, virut, kí sinh trùng phát sinh từ các nguồn thải khác nhau như chất thải công nghiệp từ các nhà máy sản xuất, các loại rác thải của các bệnh viện, các loại rác thải sinh hoạt bình thường của con người hay hoá chất, thuốc trừ sâu, phân bón hữu cơ... sử dụng trong sản xuất nông nghiệp được đẩy ra các ao, hồ, sông, suối hoặc ngấm xuống nước dưới đất mà không qua xử lí hoặc với khối lượng quá lớn vượt quá khả năng tự điều chỉnh và tự làm sạch của các loại ao, hồ, sông, suối.
2.1.2. Vai trò của môi trường nước đối với đời sống con người
Hàng ngày chúng ta tiếp xúc với nước và sử dụng nước cho những mục đích khác nhau nhưng có lẽ không phải ai cũng hiểu được hết tầm quan trọng, cũng như vai trò của nước đối với sự sống con người nói riêng và sự sống trên hành tinh nói chung. Vậy nước có những vai trò quan trọng như thế nào?
* Nước đối với cơ thể người và động vật
Đối với cơ thể con người nước chiếm 70% ở lúc sơ sinh và giảm xuống còn 60% khi trưởng thành,85% khối lượng bộ não được cấu tạo từ nước. Trong cơ thể nước đóng vai trò là dung môi cho những phản ứng hóa học trong cơ thể xảy ra. Nước vận chuyển những nguyên tố dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể. Điều hòa thân nhiệt bằng tuyến mồ hôi
Con người vẫn có thể sống sót nếu nhịn ăn 2 tháng, nhưng không thể tồn tại được nếu thiếu nước khoảng 3-4 ngày. Nếu cơ thể mất đi 2% lượng nước thì khả năng làm việc sẽ giảm đi 20%. Nếu mất đi 10% lượng nước thì cơ thể sẽ tự đầu độc và nếu mất 21% lượng nước sẽ dẫn đến tử vong. Do đó cơ thể luôn cần phải được cung cấp đủ lượng nước cần thiết để đảm bảo sự hoạt động ổn định của mình. Nhưng việc uống nhiều nước quá cũng không phải là tốt vì khi đó thận sẽ phải làm việc quá tải và nếu tình trạng diễn ra trong một thời gian dài sẽ dẫn đến những biến chứng nguy hiểm.
Với động vật như chó, mèo thì nước cũng chiếm một vài trò quan trọng để duy trì sự sống như: Tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong thức ăn, vận chuyển vật chất.
* Nước đối với cuộc sống hàng ngày
Chắc hẳn cuộc sống của chúng ta sẽ bị đảo lộn rất nhiều nếu bị mất nước trong một thời gian. Đa số hoạt động sinh hoạt hàng ngày của chúng ta đều gắn liền với nước. Từ việc nấu nướng, tắm giặt, vệ sinh đều cần đến nước. Hãy tưởng tượng xem một ngày nào đó lượng nước không đủ dùng cho mỗi người hoặc nước không còn được sạch nữa thì cuộc sống của chúng ta sẽ ra sao nhỉ?
* Nước đối với trái đất
Đối với đa số nước tồn tại trên hành tinh là một điều hiển nhiên bởi vì nó cần thiết cho hoạt động sống của tất cả các sinh vật. Nhưng ngoài ra nước trên hành tinh còn có một nhiệm vụ khác rất quan trọng đó là điều hòa nhiệt độ của trái đất. Bởi nước là một chất lỏng có nhiệt dung riêng rất lớn vào khoảng 4200j/kg.K. Tức là để đun nóng 1 kg nước lên 1 độ thì phải cần phải cung cấp 4200J. Do đó năng lượng mặt trời chiếu đến hành tinh của chúng ta là rất lớn nhưng nhiệt độ của trái đất luôn được duy trì để đảm bảo sự sống.
2.1.3. Thực trạng ô nhiễm nước trên thế giới
Rất nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng nước chiếm 3/4 diện tích trái đất cơ mà. Sao chúng ta lại phải lo thiếu nước? Nhưng các bạn có biết rằng 3/4 hay 75% nước đó lại chứa tới 97% là nước mặn ở các đại dương, cái mà chúng ta không thể sử dụng được cho những mục đích hàng ngày được. Đó là chưa kể đến 99.7% trong số 3% nước ngọt lại tồn tại ở dạng băng đá và tuyết. Vậy chỉ còn 0.3% trong tổng số 3/4 kia là nước ngọt mà chúng ta có thể sử dụng cho mục đích sinh hoạt của mình được. Quá là ít phải không nào?
Mặc dù lượng nước ngọt ít là vậy nhưng hàng ngày chúng ta vẫn đang luôn làm cho nó ít hơn bằng sự vô tâm trong cách sử dụng nước một cách hoang phí và làm ô nhiễm nguồn nước.
Hiện nay công nghiệp phát triển kéo theo đó là việc thải ra môi trường một lượng lớn nước thải. Nếu lượng nước thải này không được xử lý một cách bài bản thì việc ô nhiễm nguồn nước là điều khó tránh khỏi. Báo chí đã phanh phui rất nhiều những doanh nghiệp vì không muốn bỏ ra một số tiền lớn xử lý nước thải đã cố tình che dấu việc thải trực tiếp nước sau sản xuất ra tự nhiên. Điều này sẽ dẫn đến việc ô nhiễm nguồn nước xung quanh và trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân xung quanh đó.
2.1.4. Nguyên nhân gây ô nhiễm nước
Có 2 nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước là ô nhiễm tự nhiên và ô nhiễm nhân tạo
* Ô nhiễm tự nhiên
Là do mưa,tuyết tan, lũ lụt, gió bão hoặc do các sản phẩm hoạt động sống của sinh vật, kể cả xác chết của chúng. Cây cối, sinh vật chết đi, chúng bị vi sinh vật phân hủy thành chất hữu cơ. Một phần sẽ ngấm vào lòng đất, sau đó ăn sâu vào nước ngầm, gây ô nhiễm hoặc theo dòng nước ngầm hòa vào dòng lớn. Lụt lội có thể làm nước mất sự trong sạch, khuấy động những chất dơ trong hệ thống cống rãnh, mang theo nhiều chất thải độc hại từ nơi đổ rác và cuốn theo các loại hoá chất trước đây đã được cất giữ. Nước lụt có thể bị ô nhiễm do hoá chất dùng trong nông nghiệp, kỹ nghệ hoặc do các tác nhân độc hại ở các khu phế thải. Công nhân thu dọn lân cận các công trường kỹ nghệ bị lụt có thể bị tác hại bởi nước ô nhiễm hoá chất. Ô nhiễm nước do các yếu tố tự nhiên (núi lửa, xói mòn, bão, lụt,...) có thể rất nghiêm trọng, nhưng không thường xuyên, và không phải là nguyên nhân chính gây suy thoái chất lượng nước toàn cầu.
* Ô nhiễm nhân tạo
Từ sinh hoạt
Nước thải sinh hoạt (domestic wastewater): là nước thải phát sinh từ các hộ gia đình, bệnh viện, khách sạn, cơ quan trường học, chứa các chất thải trong quá trình sinh hoạt, vệ sinh của con người. Thành phần cơ bản của nước thải sinh hoạt là các chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học (cacbohydrat, protein, dầu mỡ), chất dinh dưỡng (photpho, nitơ), chất rắn và vi trùng. Tùy theo mức sống và lối sống mà lượng nước thải cũng như tải lượng các chất có trong nước thải của mỗi người trong một ngày là khác nhau. Nhìn chung mức sống càng cao thì lượng nước thải và tải lượng thải càng cao.
* Từ các chất thải công nghiệp
Nước thải công nghiệp (industrial wastewater): là nước thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải. Khác với nước thải sinh hoạt hay nước thải đô thị, nước thải công nghiệp không có thành phần cơ bản giống nhau, mà phụ thuộc vào ngành sản xuất công nghiệp cụ thể. Ví dụ: nước thải của các xí nghiệp chế biến thực phẩm thường chứa lượng lớn các chất hữu cơ; nước thải của các xí nghiệp thuộc da ngoài các chất hữu cơ còn có các kim loại nặng, sulfua. Ngoài các nguồn gây ô nhiễm chính như trên thì còn có các nguồn gây ô nhiếm nước khác như từ y tế hay từ các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của con người
Có một thực tế đang diễn ra là, cuộc sống ngày càng hiện đại, phát triển, đời sống vật chất của người dân ít nhiều được cải thiện thì tình trạng ô nhiễm môi trường lại có những diễn biến phức tạp. Ở nông thôn cũng như thành thị, miền núi cũng như miền biển, nước và không khí đều bị đe dọa về sự ô nhiễm. Theo các nguồn tài liệu của các tổ chức bảo vệ môi trường, ở nước ta, 70% các dòng sông, 45% vùng ngập nước, 40% bãi biển đã bị ô nhiễm, huỷ hoại về môi trường [1]
* Do sử dụng các hóa chất, thuốc trừ sâu trong nông nghiệp quá mức
Các hoạt động chăn nuôi gia súc: phân, nước tiểu gia súc, thức ăn thừa không qua xử lý đưa vào môi trường và các hoạt động sản xuất nông nghiệp khác: thuốc trừ sâu, phân bón từ các ruộng lúa, dưa, vườn cây, rau chứa các chất hóa học độc hại có thể gây ô nhiễm nguồn nước ngầm và nước mặt.
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, đa số nông dân đều sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gấp ba lần liều khuyến cáo. Chẳng những thế, nông dân còn sử dụng cả các loại thuốc trừ sâu đã bị cấm như Aldrin, Thiodol, Monitor... Trong quá trình bón phân, phun xịt thuốc, người nông dân không hề trang bị bảo hộ lao động.
Hiện nay việc sử dụng phân hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật tràn lan trong nông nghiệp làm cho nguồn nước cũng bị ảnh hưởng. Lượng hóa chất tồn dư sẽ ngấm xuống các tầng nước ngầm gây ảnh hưởng tới chất lượng nước.
2.1.5. Hậu quả
Khi nước bị ô nhiễm nhất là bị nhiễm các kim loại nặng sẽ gây độc cho con người, gây ra nhiều bệnh hiểm nghèo như ung thư, đột biến. Đặc biệt đau lòng hơn là nó là nguyên nhân gây nên những làng ung thư. 
Nếu nước bị nhiễm các chất hữu cơ tổng hợp bao gồm các chất nhiên liệu,chất màu, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng, các phụ gia trong dược phẩm thực phẩm thường độc và có độ gây ô nhiễm môi trường mạnh, gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người.
Hay vi khuẩn có hại trong nước bị ô nhiễm có từ chất thải sinh hoạt của con người, động vật có thể gây ra bệnh tả, thương hàn và bại liệt. Dĩ nhiên khi nước bị ô nhiễm thì các sinh vật sinh sống trong môi trường nước cũng sẽ bị chết hoặc bị biến đổi gen. Nếu con người sử dụng các động vật này thì đương nhiên con người cũng sẽ bị mắc bệnh
Nguy hiểm hơn con người sẽ không có nước sạch để sử dụng. Theo như dự đoán của những nhà phân tích thì trong tương lai nước sạch sẽ là một nguồn tài nguyên quý hiếm không khác gì dầu mỏ ở những thập kỷ trước và thậm trí nước còn có tầm quan trọng hơn rất nhiều. Dầu mỏ có thể được thay thế bằng khí đốt và những nguồn nhiên liệu khác. Nhưng nước thì không. Sẽ không khó tưởng tượng ra viễn cảnh xung đột giữa những quốc gia xung quanh việc chiếm hữu nguồn nước sinh hoạt. Thực tế thì nhu cầu nước đã tăng 6 lần so với 70 năm qua. Do dân số gia tăng, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu sẽ mất đi khoảng 1/3 nguồn nước sử dụng trong 20 năm tới; sẽ có khoảng 2/3 dân số thế giới thiếu nước sạch trong 25 năm tới. Hàng năm, có khoảng 3-5 triệu người chết vì các bệnh có liên quan đến nước.
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Thuận lợi: 
Xuất phát từ vai trò quan trọng của môi trường và thực trạng ô nhiễm môi trường đang diễn ra gay gắt ở nhiều nơi nên Nhà nước ta rất coi trọng việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho người dân ( bao gồm cả học sinh). Vì vậy học sinh bước đầu đã được giáo dục ý thức bảo vệ môi trường qua nhiều phương tiện truyền thông đại chúng như sách vở, báo chí, ti vi... [2]
Bản thân trường THPT Lang Chánh nơi tôi đang công tác cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa để giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước cho các em như “Cuộc thi vẽ tranh về môi trường”, hay tổ chức các buổi tuyên truyền về môi trường qua các tiết sinh hoạt, tiết chào cờ 
Ngay trong chương trình học ở các cấp học sinh cũng đã được tiếp cận với các vấn đề về môi trường. Đặc biệt ở bộ môn Địa lí vấn đề này cũng đã được thể hiện ở nhiều bài học như lớp 10 có chương X: Môi trường và sự phát triển bền vững, lớp 11 có bài 3 : Một số vấn đề mang tính toàn cầu, lớp 12 có chương 2: Vấn đề sử dụng và bảo vệ tài nguyên. Đây là thuận lợi để giáo viên có thể lồng ghép vào các bài học nội dung giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh. Vì vậy nhiều học sinh có ý thức tốt trong bảo vệ môi trường nước.
2.2.2. Khó khăn
Tuy nhiên việc nâng cao hiểu biết và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước cho học sinh trong trường phổ thông cũng có những khó khăn nhất định. 
Hiện nay, vấn đề giáo dục ý thức, trang bị kiến thức về bảo vệ môi trường trong các nhà trường chưa được chú trọng đúng mức, bảo vệ môi trường chưa được xem là một môn học ở các cấp học phổ thông, ngoại trừ một số trường đại học, cao đẳng có môn học chuyên ngành về môi trường. Bộ môn này mới chỉ được lồng ghép trong các môn sinh học, giáo dục công dân, địa lý và một số tiết học ngoại khóa. Nhưng do thời gian dành cho các chương, các bài học có giới hạn nên các nội dung về môi trường còn sơ sài chưa cụ thể. Đa số đều nêu lên thực trạng chung về vấn đề môi trường mà chưa có nội dung đào sâu về từng loại môi trường nói riêng. Dẫn tới nhận thức về vấn đề ô nhiễm môi trường nước còn sơ sài. 
Một số cuộc thi bảo vệ môi trường đã được tổ chức trong trường học, song nhìn chung, vẫn còn mang nặng tính hình thức. Do vậy ý thức bảo vệ môi trường vì thế chưa hình thành rõ nét trong tầng lớp học sinh.
Ngay cả gia đình của các em đa phần có bố mẹ đều là những người nông dân, thuộc dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên nhận thức từ các bậc cha mẹ về vấn đề môi trường còn lạc hậu và chưa quan tâm đúng mức. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của bản thân học sinh. Trong tư tưởng của nhiều học sinh còn nghĩ rằng việc ô nhiễm môi trường nước chỉ xảy ra ở một nơi nào đó rất xa xôi như ở nước ngoài hay ở các thành phố có nhiều nhà máy công nghiệp chứ không phải là nơi miền quê nông thôn các em đang sinh sống. Dẫn tới nhiều học sinh có thái độ bàng quan và thờ ơ đối với việc bảo vệ môi trường. Đây cũng là lí do để nhiều học sinh còn có các hành động đáng lên án như vứt rác bừa bãi vào ao, hồ, sông , suối.... sử dụng nước một cách lãng phí chưa tiết kiệm nước....
Trong cuộc sống, nhiều học sinh chưa được sử dụng nguồn nước sạch đúng nghĩa. Bởi vì khu vực gia đình các em sinh sống là ở nông thôn, nơi mà trình độ dân trí còn thấp và chưa được đầu tư đồng đều, đúng mức cho hệ thống cấp nước sạch phục vụ cho sinh hoạt. Bà con thường sử dụng trực tiếp từ nguồn 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giao_duc_y_thuc_bao_ve_moi_truong_nuoc_cho_hoc_sinh_lop.doc