SKKN Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy bài thực hành bộ môn Sinh học lớp 8

SKKN Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy bài thực hành bộ môn Sinh học lớp 8

Trong cuốn, những cơ sở của lí luận dạy học, B.P. Exipốp đã viết: “Không thể hình dung được việc giảng dạy sinh vật học trong nhà trường mà lại không có quan sát, không có thí nghiệm học tập”. Quan sát và thí nghiệm là các phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm, trong đó có sinh học. Đối với quá trình dạy học bộ môn sinh học, quan sát và thí nghiệm cũng là phương pháp làm việc của học sinh, nhưng với học sinh những bài tập quan sát, các thí nghiệm được giáo viên trình bày hoặc do các em tiến hành dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên thường để giải quyết những vấn đề, những kết luận đã biết, tuy vậy đối với các em vẫn là mới.

Thông qua quan sát, thí nghiệm, bằng các thao tác tư duy phân tích, tổng

hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa giúp các em xây dựng các khái niệm. Từ đó các em nắm kiến thức một cách vững chắc, giúp tư duy phát triển, tạo động lực thúc đẩy các em hứng thú, hăng say học tập.

 Quan sát và thí nghiệm đòi hỏi phải có những thiết bị dạy học như tranh

ảnh, mô hình, các mẫu vật tự nhiên và các phương tiện thiết bị phục vụ cho việc tiến hành các thí nghiệm. Tục ngữ có câu “Trăm nghe không bằng một thấy”, đủ nói lên vai trò của quan sát thí nghiệm. Người Ấn Độ và người Trung Hoa cũng đã nói: “Nghe thì quen, nhìn thì nhớ, làm thì hiểu”.

 

doc 19 trang thuychi01 6041
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy bài thực hành bộ môn Sinh học lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢNG DẠY BÀI THỰC HÀNH BỘ MÔN SINH HỌC LỚP 8
Người thực hiện: Trịnh Văn Mạnh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS TT Sao Vàng-Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Sinh học
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
A. Mở đầu
2
I. Lí do chọn đề tài
2
II. Mục đích nghiên cứu
2
III. Đối tượng nghiên cứu
3
IV. Phương pháp nghiên cứu
3
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
I. Cơ sở lí luận
3
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 
3
III. Các giải pháp giải quyết vấn đề
6
1. Xác định loại bài thực hành
6
2. Chuẩn bị giáo án
7
3. Chuẩn bị dụng cụ, thiết bị, mẫu vật; hướng dẫn học sinh làm các đồ dùng thực hành đơn giản
7
4. Giáo viên làm thử các thí nghiệm có trong bài thực hành
8
5. Tổ chức, thiết kế tiết học thật khoa học và hiệu quả
8
6. Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh
9
7. Rút kinh nghiệm sau tiết học 
10
8. Thu thập đồ dùng, kết quả thực hành của học sinh để sử dụng 
11
Ví dụ tiết dạy minh họa
11
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
15
C. Kết luận và kiến nghị
16
TÊN ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢNG DẠY BÀI THỰC HÀNH BỘ MÔN SINH HỌC LỚP 8
A. MỞ ĐẦU
	I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
	Trong cuốn, những cơ sở của lí luận dạy học, B.P. Exipốp đã viết: “Không thể hình dung được việc giảng dạy sinh vật học trong nhà trường mà lại không có quan sát, không có thí nghiệm học tập”. Quan sát và thí nghiệm là các phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm, trong đó có sinh học. Đối với quá trình dạy học bộ môn sinh học, quan sát và thí nghiệm cũng là phương pháp làm việc của học sinh, nhưng với học sinh những bài tập quan sát, các thí nghiệm được giáo viên trình bày hoặc do các em tiến hành dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên thường để giải quyết những vấn đề, những kết luận đã biết, tuy vậy đối với các em vẫn là mới. 
Thông qua quan sát, thí nghiệm, bằng các thao tác tư duy phân tích, tổng
hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa giúp các em xây dựng các khái niệm. Từ đó các em nắm kiến thức một cách vững chắc, giúp tư duy phát triển, tạo động lực thúc đẩy các em hứng thú, hăng say học tập. 
	Quan sát và thí nghiệm đòi hỏi phải có những thiết bị dạy học như tranh
ảnh, mô hình, các mẫu vật tự nhiên và các phương tiện thiết bị phục vụ cho việc tiến hành các thí nghiệm. Tục ngữ có câu “Trăm nghe không bằng một thấy”, đủ nói lên vai trò của quan sát thí nghiệm. Người Ấn Độ và người Trung Hoa cũng đã nói: “Nghe thì quen, nhìn thì nhớ, làm thì hiểu”. 
Những phân tích trên đây không chỉ cho chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của thí nghiệm thực hành mà còn nhấn mạnh đến phương pháp sử dụng các thí nghiệm thực hành đó để có thể đạt được hiệu quả cao đáp ứng mục tiêu dạy học hiện nay của sự nghiệp giáo dục. 
Vậy vấn đề đặt ra là làm sao để có thể nâng cao hiệu quả giảng dạy các tiết thực hành sinh học nói chung và các tiết thực hành trong chương trình sinh học 8 nói riêng? Đó là câu hỏi đặt ra đối với tất cả giáo viên dạy bộ môn sinh học nói chung và đối với bản thân tôi nói riêng. Với trăn trở đó, tôi đã áp dụng một số biện pháp vào bài dạy thực hành và thấy rất hiệu quả, tôi xin mạnh dạn được trình bày: ‘‘Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy bài thực hành bộ môn sinh học lớp 8’’. 
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ nhận thức trên tôi đã nghiên cứu, đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy các bài thực hành. Giúp phát triển kĩ năng thí nghiệm, thực hành, qua đó phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, năng lực tự học và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, lòng đam mê học tập bộ môn và nghiên cứu khoa học, từ đó nâng cao được chất lượng học tập bộ môn sinh học nói chung và môn sinh học 8 nói riêng.
	III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là các bài thực hành trong chương trình sinh học lớp 8 trung học cơ sở; đối tượng nhận thức là học sinh lớp 8 trường trung học cơ sở thị trấn Sao Vàng, huyện Thọ Xuân.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết 
Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã đọc các tài liệu, các dữ liệu có liên quan để có cơ sở lí luận cho việc giảng dạy các bài thực hành.
2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Tiến hành dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp để tìm hiểu việc giảng dạy các bài thực hành của giáo viên. Trao đổi, trò chuyện với học sinh để nắm bắt được việc học tập các bài thực hành của các em.
- Thực nghiệm: Tiến hành áp dụng các giải pháp trong năm học 2014-2015. 
3. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Thống kê kết quả bài thực hành có điểm cao nhất của học sinh trong học kì I, học kì II của năm học 2013-2014 và năm học 2014-2015.
- Tính giá trị trung bình dãy số điểm bài thực hành có điểm cao nhất trong học kì I, học kì II của năm học 2013-2014 và năm học 2014-2015, từ đó đối chiếu, so sánh để rút ra kết luận.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	Sinh học là bộ môn khoa học thực nghiệm, có nghĩa là từ những điều mắt thấy, tai nghe, học sinh sẽ rút ra các kết luận khoa học. Muốn như vậy cần phải giảng dạy tốt các bài thực hành.
	Khi tiến hành thực hành các em học sinh có thể phát hiện những đặc điểm về hình thái, giải phẩu và chức năng của các cơ quan, bộ phận, từ đó củng cố các dấu hiệu của khái niệm mà các em đã học ở phần lí thuyết, thậm chí là phát hiện những dấu hiệu mới.
	Thực hành là cơ hội để rèn luyện các kỹ năng bộ môn, góp phần hình thành kỹ năng nghiên cứu khoa học. Thông qua thực hành học sinh được rèn luyên kỹ năng sử dụng các phương tiện như kính lúp, kính hiển vi, bộ đồ mổ, các mô hình; rèn luyện kỹ năng mổ, quan sát các tế bào, mô, cơ quan của cơ thể; rèn luyện kỹ năng làm các thí nghiệm tìm hiểu cấu tạo, chức năng các cơ quan; biết vận dụng kiến thức, kỹ năng vào thực tế, góp phần định hướng nghề nghiệp.
	Trong khi thực hành học sinh tự mình làm các thí nghiệm, tự quan sát kết quả thí nghiệm nên rèn được tính chủ động, sáng tạo, tự lực của học sinh.
	Thực hành còn còn góp phần tạo hứng thú học tập bộ môn, thúc đẩy ham muốn tìm tòi, nghiên cứu khoa học ở học sinh. 
	II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng
	Bộ môn Sinh học cấp trung học cơ sở được bố trí với thời lượng 2 tiết/ tuần, trong đó bao gồm các tiết lí thuyết, các tiết thực hành, tiết bài tập, ôn tập tiết kiểm tra định kì, tiết kiểm tra học kì. Chương trình sinh học 8 được bố trí gồm có 7 bài thực hành, ngoài ra còn có một số thí nghiệm thực hành được bố trí trong bài dạy lí thiết, cụ thể :
	Bài 5. Thực hành quan sát tế bào và mô
	Bài 12. Thực hành tập sơ cứu và băng bó cho người gãy xương
	Bài 19. Thực hành sơ cứu cầm máu
	Bài 23. Thực hành hô hấp nhân tạo
	Bài 26. Thực hành tìm hiểu hoạt động của enzim trong nước bọt
	Bài 37. Thực hành phân tích một khẩu phần cho trước
	Bài 44. Thực hành tìm hiểu chức năng(liên quan đến cấu tạo) của tủy sống.
	Ngoài 7 bài trên, trong chương trình sinh học 8 ở một số bài có nội dung là các thí nghiệm thực hành, chẳng hạn như :
	Phần III, bài 8. Thí nghiệm tìm hiểu thành phần hóa học và tính chất của xương
	Phần II, bài 9. Thí nghiệm sự co cơ
	Phần II, bài 10. Thí nghiệm sự mỏi cơ.
	Phần I, bài 13. Thí nghiệm tìm hiểu thành phần cấu tạo của máu
	Nhìn chung hiện nay chất lượng dạy học các bài thực hành môn sinh học nói chung và môn sinh học 8 nói riêng còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học. Thực trạng đó có thể có nhiều nguyên nhân :
	Về phía giáo viên : Vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa coi trọng các bài thực hành, thậm chí là ngại dạy các bài thực hành do khó khăn về trang thiết bị, phương tiện thiếu dụng cụ, hóa chất, nhiều mẫu vật rất khan hiếm vào thời điểm dạy các tiết thực hành, nhiều giáo viên chưa mạnh dạn trong sử dụng và cải tiến, sáng tạo thí nghiệm thực hành sinh học, còn hạn chế trong khâu tổ chức thực hành, thậm chí còn thiếu kĩ năng thực hành. 
	Về phía học sinh : Với đa số các em học sinh tiết thực hành là cơ hội để các em chơi đùa, việc tiến hành thí nghiệm, thực hành quan sát hay tìm tư liệu viết báo cáo thu hoạch.... được xem là không cần thiết, các em nghĩ rằng chỉ cần học thuộc những gì ghi nhận trên lớp là xong. Tiến hành thí nghiệm, tìm tư liệu... vừa mất thời gian, vừa không được gì nên việc thực hiện các yêu cầu của giáo viên về chuẩn bị các điều kiện cho thí nghiệm hay thực hành quan sát... thì nhiều học sinh có thói quen tiến hành một cách qua loa, thao tác không như hướng dẫn, điều kiện thí nghiệm không đúng, vật mẫu không đạt yêu cầu, tư liệu không theo chủ đề, các bài báo cáo thu hoạch viết sơ sài... Nói chung các em chưa thật sự tích cực và chưa có kỹ năng hoạt động hợp tác theo nhóm, chưa quen với việc tự mình làm chủ, tiến hành thực hành thí nghiệm để tìm ra kiến thức mới, khắc sâu kiến thức đã học. 
	Về chương trình, sách giáo khoa : Số tiết thực hành trong chương trình đã được tăng lên đáng kể nhưng vẫn còn quá ít so với phần lí thuyết, phần lớn các tiết thực hành được bố trí ở cuối chương, chỉ mang tính chất củng cố, minh họa cho phần lí thuyết đã được trình bày trong các bài học của chương dưới hình thức phần lớn là “bày sẵn” từng bước cho học sinh.
Về cơ sở vật chất : Trong các nhà trường hiện nay, nhiều thiết bị thực hành bị hỏng hóc, xuống cấp, hết hạn sử dụng. Đôi khi có đơn vị mua sắm thiết bị hiện đại, nhưng việc khai thác thiết bị chưa triệt để. 
	2. Kết quả của thực trạng trên
Từ thực trạng trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả giảng dạy bài thực hành. Nhiều học sinh còn gặp khó khăn trong việc chuẩn bị đồ dùng thực hành, lúng túng khi làm thí nghiệm thực hành, chưa viết được báo cáo thu hoạch, khả năng thuyết trình trước lớp chưa tốt.
Kết quả bài thực hành có điểm cao nhất
 ( Khảo sát ở học kì I, học kì II năm học 2013-2014 của lớp 8A tại trường THCS TT Sao Vàng, Thọ Xuân)
STT
Họ và tên
Học kì I
Học kì II
Ghi chú
1
Phạm Bùi Tuấn Anh
4
5
2
Nguyễn Hải Anh
8
7
3
Nguyễn Lê Minh Anh
5
6
4
Nguyễn Thái Anh
5
5
5
Trần Ngọc Anh
6
4
6
Lê Minh Châu
8
7
7
Lê Thị Thùy Dung
8
7
8
Trần Tấn Dũng
4
5
9
Phan Ngọc Duy
4
5
10
Lê Thị Mỹ Duyên
7
6
11
Ngô Thị Hà
7
7
12
Lê Thị Hoài
5
6
13
Nguyễn Mạnh Hùng
5
6
14
Lê Thị Hương
6
8
15
Chu Hà Linh
9
9
16
Lê Thị Phương Linh
5
9
17
Lê Thị Diệu Linh
5
6
18
Phạm Thị Thùy Linh
5
5
19
Nguyễn Văn Long
6
5
20
Nguyễn Văn Long
6
4
21
Lê Thị Trà My
8
8
22
Lê Hữu Ngọc
5
6
23
Đặng Thị Ngọc
5
5
24
Lương Thị Minh Nguyệt
8
8
25
Vũ Lê Linh Phương
9
8
26
Nguyễn Thị Phượng
4
5
27
Trần Ngọc Quân
4
5
28
Nguyễn Thị Quỳnh
8
7
29
Nguyễn Thị Quỳnh
8
8
30
Phạm Thị Huyền Thanh
4
5
31
Võ Trọng Thành
4
4
32
Đào Thị Thảo
6
5
33
Nguyễn Thị Thảo
7
6
34
Nguyễn Văn Tiến
7
8
35
Nguyễn Hà Trang
6
6
36
Trần Thị Trang
6
5
37
Trần Thị Trinh
7
7
38
Phùng Văn Trung
6
7
Giá trị trung bình dãy điểm số
6.05
6.18
	Vấn đề trên làm tôi suy nghĩ rất nhiều, cần đổi mới phương pháp dạy các bài thực hành như thế nào? hình thức tổ chức ra sao? yếu tố quyết định sự thành công của việc giảng dạy các bài thực hành là gì? 
Thấy được khó khăn trong giảng dạy các bài thực hành, thí nghiệm tôi đã tìm tòi, áp dụng các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên và đã mang lại kết quả tốt. 
III. CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Qua quá trình giảng dạy và tìm hiểu các tài liệu tham khảo, áp dụng các hướng dẫn của ngành về đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá,  tôi có áp dụng một số giải pháp cụ thể sau nhằm nâng cao hiệu quả giảng tiết thực hành trong chương trình sinh học nói chung và sinh học 8 nói riêng, cụ thể:
1. Xác định loại bài thực hành. 
Căn cứ vào nội dung và tính chất, có thể phân chia thành các dạng bài thực hành như sau:
a. Dạng bài thực hành phát hiện kiến thức mới
Đây là những thí nghiệm thực hành giúp học sinh phát hiện ra các kiến thức mới. Các kiến thức liên quan đến thí nghiệm thực hành học sinh chưa thấy, chưa biết và chưa được thực hiện. Các thí nghiệm thực hành này thường nằm trong một nội dung của bài lí thuyết kiểu thực hành. 
Trong chương trình sinh học lớp 8 các bài dạng này gồm:
Bài 8. Cấu tạo và tính chất của xương; có thí nghiệm tìm hiểu thành phần và tính chất của xương.
Bài 10. Hoạt động của cơ; có thí nghiệm về biên độ co cơ ngón tay.
Bài 44. Thực hành tìm hiểu chức năng liên quan đến cấu tạo của tủy sống.
Đối với loại bài có các thí nghiệm thực hành dạng này, giáo viên cần tiến hành tuần tự từng nội dung của bài. Với nội dung có thí nghiệm thực hành giáo viên cần phải hướng dẫn thật kĩ các thao tác của mỗi bước thực hành. Giáo viên hướng dẫn đến dâu học sinh thực hiện đến đó, sau đó giáo viên hướng dẫn cho học sinh rút ra kết luận khoa học.
b. Dạng bài thực hành củng cố, minh họa
Đây là những thí nghiệm thực hành nhăm giúp học sinh củng cố, minh họa và kiểm chứng các kiến thức mà các em đã được học. Dạng thí nghiệm thực hành này được thực hiện sau khi học sinh đã có vốn kiến thức lí thuyết. Các thí nghiệm thực hành dạng này thường được bố trí ngay sau tiết học lí thuyết hoặc được bố trí ở cuối chương. 
Trong chương trình sinh học lớp 8 các bài dạng này gồm:
Bài 5. Thực hành quan sát tế bào và mô
Bài 26. Thực hành tìm hiểu hoạt động của enzim trong nước bọt
Bài 37. Thực hành phân tích một khẩu phần cho trước
Đối với các thí nghiệm thực hành dạng này giáo viên cần thiết kế bài thực hành thật sinh động, hấp dẫn để thu hút học sinh, khuyến khích học sinh có ham muốn và tích cực tham gia thực hành.
c. Dạng bài thực hành vận dụng thực tế 
Đây là những bài thực hành nhằm giúp học sinh vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết các tình huống thực tế trong cuộc sống. 
Trong chương trình sinh học lớp 8 các bài dạng này gồm: 
Bài 12. Thực hành tập sơ cứu và băng bó cho người gãy xương.
Bài 19. Thực hành sơ cứu cầm máu
Bài 23. Thực hành hô hấp nhân tạo
Bài 37. Thực hành phân tích một khẩu phần cho trước
2. Chuẩn bị giáo án
	Chuẩn bị giáo án chu đáo, đọc kĩ mục tiêu và nội dung bài thực hành, từ đó có phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Khi soạn giáo án là giáo viên phác họa các công việc cụ thể trong tiết thực hành trên lý thuyết, xác định thời gian cho mỗi phần, từ đó đưa ra phương án cụ thể cho từng tình huống cụ thể.
Giáo án cần phải thể hiện rõ mục tiêu, phương tiện dạy học, phương pháp chủ yếu, các hoạt động của giáo viên và học sinh, phù hợp với trình độ của từng đối tượng học sinh, đảm bảo các em có hứng thú học tập, không cảm thấy nhàm chán. Tất cả đều phải thật cụ thể, chi tiết, dễ hiểu, ước lượng thời gian cho từng phần, từng công việc cụ thể để làm sao khi triển khai thật hợp lí và hiệu quả.
 Việc soạn giáo án nên được thực hiện trên cả phần mềm soạn thảo văn bản MicrosoftWord và phần mềm trình chiếu MicrosoftPowerPoint. Việc sử dụng phần mềm trình chiếu MicrosoftPowerPoint có vai trò quan trọng, chẳng hạn khi thiếu bộ tiêu bản các loại mô, giáo viên có thể trình chiếu hình ảnh các loại mô cho học sinh quan sát; hoặc có những thí nghiệm khó thực hiện, mất nhiều thời gian, giáo viên có thể thay thế bằng các thí nghiệm ảo; hoặc giáo viên trình chiếu các bước thực hành cho học sinh theo dõi và thực hiện theo. Để làm tốt việc này giáo viên cần tìm hiểu, sưu tầm thêm các tư liệu bài giảng, các hình ảnh, videoclip, thí nghiệm ảo, kết quả thực hành của học sinh các khóa trước  để đưa vào tiết dạy cho phù hợp. 
3. Chuẩn bị dụng cụ, thiết bị, mẫu vật; hướng dẫn học sinh làm các đồ dùng thực hành đơn giản
Đây là khâu quyết định đến sự thành công của tiết thực hành. Giáo viên cần chuẩn bị dụng cụ, thiết bị, mẫu vật đầy đủ, có các phương án dự phòng các tình huống có thể phát sinh để chuẩn bị thêm, đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng. Muốn vậy giáo viên phải xây dựng kế hoạch sử dụng dụng cụ, thiết bị, mẫu vật từ đầu năm cho từng tiết thực hành.
Ở hầu hết các trường trung học cơ sở do chưa có nhân viên chuẩn bị thực hành nên trực tiếp giáo viên phải tự chuẩn bị, mặt khác thời gian giữa hai tiết rất ngắn nên giáo viên cần phải chuẩn bị từ hôm trước hoặc phải đến sớm đầu buổi học để chuẩn bị dụng cụ, thiết bị, mẫu vật cho tiết thực hành.
Ngoài những dụng cụ, thiết bị, mẫu vật cần chuẩn bị như yêu cầu của từng bài thực hành( đã được liệt kê như sách giáo khoa), giáo viên cần chuẩn bị thêm các tư liệu như: hình ảnh, videoclip, mô hình, kết quả thực hành của học sinh các khóa trướcCác đồ dùng sau khi chuẩn bị được đặt vào các túi đựng riêng biệt, tránh để lẫn, hư hỏng, sai số liệu, Đối với tư liệu mẫu là hình ảnh, đoạn video, bài giảng mẫu, thì nên lưu trữ trên máy tính cá nhân, hòm thư cá nhân, USB,  để đảm bảo không bị mất dữ liệu. 
Để đảm bảo có đủ đồ dùng mỗi giáo viên nên có kế hoạch tự làm đồ dùng, đồng thời giáo viên cũng nên hướng dẫn học sinh tự làm đồ dùng, nhất là những đồ dùng đơn giản, dễ làm. Thông qua việc tự làm đồ dùng các em sẽ hiểu được công dụng, cách sử dụng đồ dùng để khi thực hành các em không bỡ ngỡ và bắt kịp hoạt động thực hành trên lớp. 
4. Giáo viên làm thử các thí nghiệm có trong bài thực hành
	Thực tế cho thấy nhiều giáo viên còn thiếu kĩ năng thực hành thí nghiệm, mà một trong những lí do là giáo viên không hoặc ít khi làm thử các thí nghiệm có trong chương trình. Khi dạy các bài thực hành giáo viên chỉ hướng dẫn trên cơ sở sách giáo khoa mà không làm thí nghiệm trên thực tế, điều đó làm mất bản chất của bài thực hành thí nghiệm. Do đó theo tôi đối với mỗi thí nghiệm thực hành, cho dù dễ làm hay khó làm, giáo viên cũng nên làm thử vài lần. Nếu không làm thử giáo viên sẽ không xác định được các vấn đề có thể nảy sinh, từ đó sẽ lúng túng trong khâu xử lí. Khi làm thử các thí nghiệm có trong bài thực hành sẽ giúp giáo viên rút ra các kinh nghiệm cần thiết, giúp rèn luyện các kĩ năng chuẩn mà từ đó sẽ cho học sinh các lưu ý khi làm để thí nghiệm thành công. Giáo viên hãy mạnh dạn làm thử, qua một số lần sẽ làm thành thạo và trở thành kĩ năng, khi đó giáo viên sẽ tự tin hơn trong các tiết thực hành thí nghiệm.
5. Tổ chức, thiết kế tiết học thật khoa học và hiệu quả
Để tránh tình trạng thiếu thời gian, khi dạy thực hành giáo viên cần dựa vào các nguyên tắc trong tiết thực hành như: Phải quy định rõ thời gian cho mỗi công việc, hoạt động nhóm và học sinh phải tuân thủ nghiêm túc, giáo viên là người theo dõi và giám sát, ghi lại các hoạt động của học sinh để nhắc nhở, rút kinh nghiệm hay chấm điểm.
Tiết học thực hành có thể gồm 3 hoạt động chính sau: 
	Hoạt động 1. Giới thiệu mục tiêu bài học, phân công nhiệm vụ cho 
các nhóm
	Bao gồm: 
	- Bố trí nơi ngồi, kiểm tra sĩ số, kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh, phân phát dụng cụ, thiết bị, mẫu vật.
	- Giới thiệu mục tiêu bài học; các nhóm phân công nhiệm vụ cho mỗi thành viên
	Hoạt động 2. Giáo viên hướng dẫn các bước thực hành.
	Giáo viên nêu các mục tiêu của tiết thực hành, phải đảm bảo mỗi học sinh nhận thức rõ mục tiêu học tiết thực hành để làm gì? 
	Giáo viên cần giới thiệu ngắn gọn, dễ hiểu các bước thực hành phải đảm bảo mỗi học sinh nhận thức rõ làm thực hành như thế nào? Bằng cách nào? Giáo viên cũng cần hướng dẫn các nội dung mà học sinh cần chú ý quan sát, đồng thời xác định hệ thống câu hỏi để hướng học sinh vào hoạt động quan sát kết hợp với việc suy nghĩ để tìm lời giải thích hiện tượng quan sát được.
	Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể, chi tiết việc chuẩn bị các thí nghiệm. Giao nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm phải làm gì và làm như thế nào, cả nhóm phải làm gì. Để các nhóm thực hiện tốt giáo viên cần lưu ý đối với nhóm trưởng và nhóm phó trong việc đôn đốc, nhắc nhở và kiểm tra sự chuẩn bị của các thành viên trong nhóm để báo cáo với giáo viên.
	Hoạt động 3. Học sinh thực hành, mô tả và giải thích kết quả các thí nghiệm
	Đây là hoạt động chủ yếu của bài thực hành. Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên cần phải thường xuyên theo dõi để nhắc nhở nhóm hoặc cá nhân chưa cố gắng, động viên nhóm, cá nhân làm tốt, uốn nắn những thao tác thực hiện chưa chính xác. 
	Giáo viên yêu cầu học sinh mô tả k

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giai_phap_gop_phan_nang_cao_hieu_qua_giang_day_bai_thuc.doc