SKKN Đưa các vấn đề thực tiễn vào bộ môn hóa học trung học phổ thông

SKKN Đưa các vấn đề thực tiễn vào bộ môn hóa học trung học phổ thông

Trong chương trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn hóa học tôi thấy: môn hóa học trong chương trình phổ thông là môn khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý, phù hợp với thế hệ học trò thì dễ làm học HS thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Hầu như học sinh học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Môn hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Có những vấn đề hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học.

Để hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu nh¬ư một “thuật ngữ khoa học” qua đó từng bước hình thành ở các em lòng yêu thích bộ môn và niềm đam mê khoa học tôi chọn đề tài “Đưa các vấn đề thực tiễn vào bộ môn hóa học trung học phổ thông” với mục đích cho môn hóa ngày càng dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.

 

doc 20 trang thuychi01 6330
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Đưa các vấn đề thực tiễn vào bộ môn hóa học trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong chương trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn hóa học tôi thấy: môn hóa học trong chương trình phổ thông là môn khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý, phù hợp với thế hệ học trò thì dễ làm học HS thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Hầu như học sinh học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Môn hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Có những vấn đề hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học.
Để hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học” qua đó từng bước hình thành ở các em lòng yêu thích bộ môn và niềm đam mê khoa học tôi chọn đề tài “Đưa các vấn đề thực tiễn vào bộ môn hóa học trung học phổ thông” với mục đích cho môn hóa ngày càng dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thực tế một bộ phận học sinh hiện nay không muốn học hóa học, ngày càng lạnh nhạt với các giá trị thực tiễn của hóa học.Đề tài này được thực hiện với mục đích giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong thực tế đời sống, tránh việc mê tín dị đoan. Đồng thời, đề tài cũng sẽ làm rõ ý nghĩa khoa học hoá học có thể ứng dụng thực tiễn trong đời sống thường ngày qua giảng dạy hóa học, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng thú trong môn học. Từ những cơ sở đó, đề tài cũng sẽ đem lại cho giáo viên và học sinh những nhận thức về phương pháp học tập, làm việc mang tính hợp tác, thấy rõ vai trò tích cực của học sinh và chủ đạo của giáo viên làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù phức tạp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Các phương pháp dạy học tích cực.
- Các bài giảng trong chương trình THPT.
- Tình hình thực tiễn ở địa phương.
Học sinh THPT, đặc biệt là học sinh trường PT Nguyễn Mộng Tuân (tôi đang dạy)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Trong quá trình học tập, giảng dạy và nghiên cứu kiến thức này tôi tập trung giải quyết các vấn đề sau:
	- Nghiên cứu kỹ lý thuyết trong sách giáo khoa.
	- Nghiên cứu tình hình thực tiễn tại địa phương để đưa ra những câu hỏi sát với thực tế giúp học sinh dễ nhận thấy và nắm được vấn đề.
	- Nghiên cứu khả năng tiếp thu của học sinh trường PT Nguyễn Mộng Tuân để có những cách trình bày thật dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Vận dụng phương pháp đưa vấn đề thực tiễn vào bài giảng của mình, học tập của học sinh, cũng như thu thập ý kiến phản hồi của học sinh và đồng nghiệp, rút kinh nghiệm sữa chửa, bổ sung, hoàn thiện hơn.
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1 Cơ sở pháp lí
- Dựa trên nội dung bộ SGK 10,11,12 do Bộ Giáo dục pháp hành.
- Dựa trên bài tập của bộ sách bài tập hóa học đang dùng trong trường.
- Dựa vào sách tham khảo và các tài liệu có liên quan .
Đó là những cơ sở pháp lý vững chắc để tôi chọn, nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm này.
2.1.2 Cơ sở lí luận 
Môn hoá học giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí tuệ của học sinh. Mục đích của môn hóa học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh; nâng cao những tri thức, hiểu biết về thế giới, về con người thông qua các bài học, các giờ thực hành...
Học hoá để hiểu, để giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học.
Học hoá để biết, là góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người... 
Học hoá để làm, là khởi nguồn, là cơ sở để sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. 
Để đạt được mục đích của môn hoá học, ngoài việc phải tiếp thu đầy đủ những kiến thức từ trên lớp, từ sách giáo khoa, từ các thầy cô, học sinh còn tự mình sưu tầm và tìm hiểu những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Vận dụng những kiến thức đã học được để giải thích những hiện tượng đó, nhờ vậy học sinh được củng cố kiến thức sâu sắc hơn. Và cũng nhờ đó học sinh thấy học môn hóa dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn hơn.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1 Thuận lợi: 
Hóa học là môn khoa học gắn liền với thực tiễn, trong các lĩnh vực đời sống, lao động, quốc phòng... nhiều quá trình, hiện tượng mang bản chất hóa học mà rất nhiều người mong muốn hiểu rõ được bản chất vấn đề trong đó đối tượng học sinh chiếm tỉ lệ không nhỏ.
Với xã hội ngày càng phát triển văn minh, yêu cầu của xã hội là bằng con đường giáo dục, truyền thông...nâng cao hiểu biết của người dân sao cho mọi vấn đề được nhìn nhận bởi ánh sáng khoa học tránh mê tín dị đoan và những quan điểm sai lệch làm phương hại đến đời sống, gây mất trật tự trị an trong cộng đồng.
Việc phát triển của công nghệ kĩ thuật số góp phần to lớn vào việc tìm hiểu và giải quyết nhiều vấn đề trong đó có hóa học. Với mỗi học sinh THPT hiện nay, vấn đề truy cập mạng để tìm kiếm dữ liệu tiếp thu kiến thức rất dễ dàng dưới sự định hướng, theo dõi, giải thích của người giáo viên vững vàng kiến thức là rất tốt và cần thiết. 
2.2.2 Khó khăn: 
Môn hoá học trong trường phổ thông là một trong môn học khó, nhiều em học sinh có tâm lí sợ học môn hóa học. Kiến thức xuyên suốt từ lớp dưới cho đến lớp trên, nếu bị hỏng một chổ nào đó là học sinh sẽ khó tiếp thu kiến thức mới. Kiến thức khô khan, lý thuyết dài dòng, khá mơ hồ làm cho học sinh khó hiểu bài. Đặc biệt kỹ năng vận dụng kiến thức vào bảo vệ môi trường, giải thích các hiện tượng xảy ra xung quanh còn rất hạn chế. Do vậy, nếu giáo viên không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp thì sẽ trở thành người cảm nhận, truyền thụ tri thức một chiều, dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận, có thể có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hoá học hoặc lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học.
Do vậy sáng kiến kinh nghiệm đề cập khía cạnh:” Đưa các vấn đề thực tiễn vào bộ môn hóa học trung học phổ thông ” với mục đích góp phần sao cho học sinh dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Để giải quyết thực trạng, trong thời gian qua, việc giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường PT Nguyễn Mộng Tuân đã có những đổi mới rất tiến bộ. Ngoài việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, Tổ bộ môn còn tổ chức các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, giúp các em tìm hiểu thêm về kiến thức trong thực tiễn. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ để tạo hứng thú cho việc học của học sinh.
Trước thực trạng đó, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Đưa các vấn đề thực tiễn vào bộ môn hóa học trung học phổ thông”. Có những vấn đề Hóa học có thể giúp học sinh giải thích các hiện tượng trong tự nhiên, tránh được tật mê tín dị đoan, hoặc là giải thích được các câu ca dao tục ngữ mà dân gian để lại trên phương diện khoa học. Từ đó học sinh cảm thấy không nhàm chán mà kiến thức môn Hóa học rất gần gũi và như là đâu đó ở xung quanh mình, góp phần cải tiến tư duy làm cho hóa học bớt đi khô khan, bớt đi tính hàn lâm và những đặc thù phức tạp của bộ môn. 
Trong phạm vi của đề tài này, tôi không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề có trong thực tiễn, mà chỉ cố gắng nêu một số kinh nghiệm và một số kiến thức về hiện tượng hóa học trong tự nhiên có liên quan đến nội dung bài học ở chương trình hóa học cấp THPT theo những cách nêu vấn đề như sau:
1) Nêu các hiện tượng thực tiễn vào cuối bài học. 
2) Nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày thông qua các phương trình phản ứng hóa học có trong bài học. Cách nêu vấn đề này có tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu ngay và thấy được ý nghĩa thực tiễn của bài học. Giáo viên có thể giải thích ngay để thỏa mãn tính tò mò của học sinh.
3) Nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày cho lời giới thiệu bài học mới
4) Nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày thông qua các bài tập tính toán. 
5) Nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày thông qua các câu chuyện ngắn có tính khôi hài có thể xen vào bất cứ lúc nào trong suốt buổi học.
6) Nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày bằng cách thực hiện các thí nghiệm biễu diễn. 
7) Nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày bằng cách nêu các hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính quy luật. 
Để tổ chức thực hiện, giáo viên có thể vận dụng nhiều cách, nhiều phương tiện như sau:
+ Bằng lời thuyết trình, giải thích.
+ Bằng các đoạn phim ảnh, máy chiếu.
+ Bằng các thí nghiệm thực hành biểu diễn.
+ Bằng các hình vẽ, tranh ảnh.
+ Sưu tầm nhiều thí dụ minh họa, nhiều hiện tượng trong thực tiễn.
+ Yêu cầu học sinh nêu câu hỏi về các hiện tượng mà mình bắt phải.
 + Chất vấn học sinh để giải thích các hiện tượng đó.
Sau đây là một số ví dụ minh họa về các vấn đề thực tiễn liên quan đến hóa học
Vấn đề 1: pH và sự sâu răng liên quan với nhau như thế nào ?
Giải thích:
Răng được bảo vệ bởi lớp men cứng, dày khoảng 2mm. Lớp men này là hợp chất Ca5(PO4)3OH và được tạo thành bằng phản ứng : 
 5Ca2+ + 3PO43- + OH- ---> Ca5(PO4)3OH
Quá trình tạo lớp men này là sự bảo vệ tự nhiên của con người chống lại bệnh sâu răng.
Sau bữa ăn, vi khuẩn trong miệng tấn công các thức ăn còn lưu lại trên răng tạo thành các axit hữu cơ như axit axetic, axit lactic. Thức ăn với hàm lượng đường cao tạo điều kiện tốt nhất cho việc sản sinh ra các axit đó.
Lượng axit trong miệng tăng, pH giảm, làm cho phản ứng sau xảy ra: 	.
Khi nồng độ OH- giảm, theo nguyên lí Lơ Sa-tơ-li-ê, cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều nghịch và men răng bị mòn, tạo điều kiện cho sâu răng phát triển. Biện pháp tốt nhất phòng sâu răng là ăn thức ăn ít chua, ít đường, đánh răng sau khi ăn. Người ta thường trộn vào thuốc đánh răng NaF hay SnF2, vì ion F- tạo điều kiện cho phản ứng sau xảy ra.
Hợp chất Ca5(PO4)3 F là men răng thay thế một phần Ca5(PO4)3OH.
Trước đây, ở nước ta một số người có thói quen ăn trầu là tốt cho việc tạo men răng theo phản ứng (1), vì trong miếng trầu có vôi tôi Ca(OH)2, chứa Ca2+ và OH- làm cho cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều thuận.
Áp dụng Bệnh sâu răng là bệnh rất phổ biến hiện nay .Vì vậy có thể đưa vấn đề này để học sinh hiểu được một trong những nguyên nhân gây bệnh sâu răng và cách phòng tránh vào bài " pH – chất chỉ thị axit-bazo, flo 
Vấn đề 2: Ca dao Việt Nam có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ. Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” mang hàm ý của khoa học hóa học như thế nào?
Giải thích:
Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: vụ chiêm ki lúa đang trổ đòng mà có trận mưa kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. Vì sao lại như vậy?
Do trong không khí có 80% khí N2 và 20% khí O2, khi có chớp (có tia lửa điện) tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
	N2 + O2 2NO
	 	2NO +O2 2NO2
Khí NO2 tan vào nước mưa: 4NO2 + O2 +2H2O4HNO3
	HNO3H+ + NO (đạm)
Nhờ hiện tượng này cây cối được cung cấp một lượng đạm tự nhiên hàng năm với lượng 6-7kg nitơ cho mỗi ha đất. Ngày nay người ta đã chế ure (NH2)2CO để chủ động bón cho cây trồng và trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ của ngành công nghiệp hóa chất là “hướng về không khí đòi lương thực”
Áp dụng: Đây là câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân bón hóa học, hợp chất của nito.. tạo hứng thú tìm hiểu, quan sát,giải thích hiện tượng tự nhieencho học sinh.
Vấn đề 3: Vì sao trộn phân đạm một lá (NH4)2SO4, hai lá NH4NO3 hoặc nước tiểu với vôi trong Ca(OH)2  bị mất đạm?
Giải thích:
Vì NH3 bị mất mát do phản ứng:
 (NH4)2SO4 + Ca(OH)2 → 2NH3 ↑ + CaSO4 ↓ +  2H2O     (1) 
 2NH4NO3 + Ca(OH)2 → 2NH3 ↑+ Ca(NO3)2  +  H2O    (3) 
Nước tiểu có chứa hàm lượng ure CO(NH2)2, vi sinh vật hoạt động chuyển ure thành (NH4)2CO3:
     CO(NH2)2    +  2H2O     →   (NH4)2CO3   (5)
 (NH4)2CO3 dễ bị phân hủy khi trời nắng theo phản ứng:
 (NH4)2CO3  →  NH3 ↑  +  CO2 ↑ +  H2O
Áp dụng: Câu hỏi này có tính thực tế rất cao, có thể đưa vào nội dung bài "Muối amoni " hoặc " Phân bón hóa học"
Vấn đề 4 :Vì sao ăn sắn (củ mì) hay măng có khi bị ngộ độc?
Giải thích: 
Ăn sắn hay măng bị ngộ độc khi chúng chứa nhiều axit xianhiđric (HCN). Ở dạng tinh khiết axit xianhidric là chất khí mùi hạnh nhân, có vị đắng và rất độc. Nhiệt độ nóng chảy là - 13,30C, tan trong nước, rượu, ete và là axit rất yếu. Trong thiên nhiên gặp ở dạng liên kết trong một số thực vật (hạt mận, đào, củ sắn, măng tươi).
Sắn luộc hay măng luộc hoặc xào nấu có vị đắng là chứa nhiều axit xianhiđric, có nguy cơ bị ngộ độc. Khi luộc sắn cần mở vung để axit xianhiđric bay hơi. Sắn đã phơi khô, giã thành bột để làm bánh thì khi ăn không bao giờ bị ngộ độc vì khi phơi khô axit xianhiđric sẽ bay hơi hết.
Trong công nghịêp axit xianhiđric được điều chế bằng cách oxi hoá hỗn hợp khí metan (CH4) và amoniac (NH3), có xúc tác platin. Axit xianhiđric là nguyên liệu điều chế tổng hợp các chất cao phân tử. Axit xianhiđric ở dạng tự do dùng làm chất xông hơi chống côn trùng gây bệnh. 
Muối của axit xianhiđric như kali xianua (KCN) dùng trong tổng hợp hữu cơ, trong nhiếp ảnh và để tách kim loại vàng, bạc ra khỏi quặng.
Áp dụng: Cung cấp cho học sinh thêm một kiến thức về thực tiễn, để các em hiểu và phòng tránh, giúp học sinh hứng thú.Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này trong các bài giảng có liên quan đến xianua, như bài Nitơ hoặc hợp chất của Nitơ ở lớp 11.
Vấn đề 5: Ma trơi là gì? 
Giải thích:
Ma trơi chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất là: Trong xương động vật có chứa một hàm lượng photpho, khi chết phân hủy một phần thành khí PH3 (photphin). Khi có lẫn một ít điphotphin (P2H4), khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu lửa bay trong không khí.
PH3+4O2 --> P2O5 + 3H2O (cháy sáng)
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là người ta gặp “ma trơi” tại các nghĩa địa càng làm tăng thêm tính chất kịch tính.
Áp dụng: Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về photpho để giải thích hiện tượng “ma trơi” trong đời sống tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc sống lành mạnh.
Vấn đề 6: “Hiệu ứng nhà kính” là gì ?
Giải thích: 
Vấn đề khí hậu Trái đất đang ngày càng ấm dần lên có nguyên nhân do sự gia tăng hàm lượng khí CO2 trong khí quyển. Khí CO2 trong khí quyển hấp thụ một phần các bức xạ nhiệt có bước sóng nhất định từ mặt trời chiếu xuống. Những bức xạ nhiệt có bước sóng cao hơn phát ra từ mặt đất thì khí CO2 lại hấp thụ mạnh và phát trở lại, làm cho Trái đất ấm dần lên. Người ta tính rằng, nếu hàm lượng CO2 trong khí quyển tăng lên gấp đôi so với hiện tại thì mặt đất sẽ tăng thêm khoãng 4oC.
Về mặt bức xạ, lớp CO2 trong khí quyển tương đương với lớp thủy tinh của các nhà kính dùng để trồng hoa ở xứ lạnh. Do đó, hiện tượng làm cho Trái đất ấm dần lên như vừa nêu được gọi là hiệu ứng nhà kính. Hiệu ứng nhà kính có ảnh hưởng đến khí hậu và môi trường: mùa hè nóng hơn, mùa đông bớt lạnh, băng ở hai cực Trái đất tan nhiều hơn làm cho mực nước biển dâng cao hơn.
Hiện nay, đã có nhiều quốc gia tham gia Hiệp ước toàn cầu về cắt giảm khí thải để hạn chế lượng khí CO2 đưa vào khí quyển.
Áp dụng : Giúp học sinh có ý thức bảo vệ môi trường sống. Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này trong bài giảng về hợp chất của cacbon hoặc hóa học và môi trường.
Vấn đề 7: Vì sao khi mở bình nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát ra ?
Giải thích: 
Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là có thêm khí cacbonic CO2. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực lớn để ép CO2 hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu được nước ngọt. Khi bạn mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO2 lập tức thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi. 
Về mùa hè người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khí CO2. Ở trong dạ dày nhiệt độ cao nên CO2 nhanh chóng theo đường miệng thoát ra ngoài, nhờ vậy nó mang đi bớt một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra CO2 có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường việc tiết dịch vị, giúp nhiều cho tiêu hóa.
Áp dụng: Hiện tượng có nhiều bọt khí thoát ra từ bình nước ngọt có ga hay chai bia thì chắc hẳn học sinh nào cũng biết. Nhưng khi giải thích khí đó là khí gì và có công dụng ra sao, khí đó đưa vào bình được như thế nào thì học sinh không biết được. Giáo viên có thể nêu câu hỏi trên khi dạy hợp chất của Cacbon
Vấn đề 8: Ngộ độc khí CO như thế nào?
Giải thích: 
 Khi đốt cháy than (cacbon) sẽ xảy ra phản ứng: 
 C + O2 → CO2.
Trong điều kiện thiếu O2 thì xảy phản ứng:
 CO2 + C → 2CO
Khí CO rất độc do có khả năng hóa hợp với hemoglobin trong máu tạo ra hợp chất bền ngăn cản quá trình chuyển tải oxi từ phổi đến các mao quản máu trong cơ thể con người và động vật, gây đông máu, gây trụy tim mạch dẫn đến tử vong. Trong quá trình hô hấp của con người, khí CO sẽ thâm nhập từ từ, làm cho ta bị “lịm” dần, gây tử vong nếu không cấp cứu kịp thời.
Trong mùa lạnh, người dân hay đốt lò than trong nhà kín cửa để sưởi khi ngủ. Đây là việc làm rất nguy hiểm vì sẽ bị ngộ độc khí CO. Nhà bếp cũng nên rộng thoáng, có thông hơi để không ngộ độc khí CO cho con người.
Áp dụng: Giúp học sinh hiểu và tránh bị ngộ độc khí CO, đặc biệt là không nên dùng lò than để sưỡi ấm trong nhà kín.Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này khi giảng bài về Cacbon hoặc hợp chất của Cacbon.
Vấn đề 9 : “Nước đá khô” là gì và có công dụng như thế nào?
Giải thích: 
Nước đá khô (hay còn gọi là tuyết cacbonic) được điều chế từ CO2 hoặc CO2 hóa lông. Đây là tác nhân lạnh ở thể rắn cung cấp hơi lạnh bằng cách biến đổi trạng thái: đá khô thăng hoa thành hơi, không qua trạng thái lỏng.
CO2 lỏng, đặc biệt là nước đá khô (không độc hại), được ứng dụng thích hợp để bảo bảo những sản phẩm kỵ ẩm và dùng làm lạnh đông thực phẩm. Dùng đá khô để làm lạnh và bảo quản gián tiếp các sản phẩm có bao gói nhưng có thể dùng làm lạnh và bảo quản trực tiếp. Chính chất tác nhân làm lạnh này (CO2) đã làm ức chế sống của vi sinh vật, giữ được vị ngọt-màu sắc hoa quả. Đồng thời hạn chế được tổn hao khối lượng tự nhiên của sản phẩm do sự bay hơi từ bề mặt sản phẩm và các quá trình lên men, phân hủy.
Áp dụng Nước đá khô hiện nay còn được sử dụng để "tạo khói " cho những màn rót sâm- panh lãng mạn ở các buổi tiệc. Bảo quản thực phẩm bằng nước đá khô là cách rất tốt hiện nay. Giáo viên có thể hỏi học sinh về ứng dụng của CO2 khi dạy về tính chất vật lý của CO2.
Vấn đề 10: Các chất hóa học trong cơ thể con người ta gồm những gì?
Giải thích: 
Các nhà khoa học đã có tính toán một cách thú vị như sau: trong cơ thể con người ta có:
- Lượng nước đủ giặt sạch một chiếc áo sơ-mi.
- Lượng Fe đủ để làm một chiếc đinh 5 phân.
- Lượng đường đủ làm nửa cái bánh ngọt nhỏ.
- Lượng vôi (canxi) đủ để xây một cái chuồng gà.
- Lượng chất béo đủ để nấu 7 chiếc bánh xà phòng.
- Lượng photpho đủ để sản xuất trên 2000 chiếc đầu que diêm.
- Lượng lưu huỳnh đủ để giết chết một con bọ chét.
- Ngoài ra còn có một số nguyên tố khác K, Mg, Cu...
Tính tổng cộng trong cơ thể một người nặng 65 kg tổng giá trị của các chất là rất thấp.
Áp dụng: Đây là tình huống có tính khôi hài, giúp học sinh thư giãn, nhưng các em cũng biết được một số nguyên tố có trong cơ thể con người.
Vấn đề 11: Ngộ độc khí CH4 như thế nào?
Giải thích: 
Trong thực tế có xảy ra hiện tượng khi người ta leo xuống các giếng sâu, hoặc vào trong các bồn chứa nước xây thành bằng xi-măng thì bị ngộ độc khí, dẫn đến chết người.
Học sinh đã biết, khí metan (CH4) có thể sinh ra khi xác thực vật bị phân hủy lâu ngày. Cho nên khí metan còn được gọi là “khí bùn ao”. Trong các 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_dua_cac_van_de_thuc_tien_vao_bo_mon_hoa_hoc_trung_hoc_p.doc
  • docBAN CAM KET.doc
  • docbia Hóa Hoc.doc
  • docMUC LUC.doc
  • docTÀI LIỆU THAM KHẢO.doc