SKKN Đổi mới phương pháp giảng dạy văn bản chính luận qua bài “chiếu cầu hiền” (Ngô Thì Nhậm)

SKKN Đổi mới phương pháp giảng dạy văn bản chính luận qua bài “chiếu cầu hiền” (Ngô Thì Nhậm)

 Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo từng thể loại là một vấn đề đã được đặt ra từ lâu trong thực tiễn giảng dạy văn học ở trường PT và từ lâu vẫn vẫn thường là mối băn khoăn, suy nghĩ, tìm tòi của phần lớn giáo viên dạy Văn ở trường THPT chúng ta. Điều băn khoăn, suy nghĩ tìm tòi ấy bắt nguồn từ một ý nguyện rất chính đáng là làm sao cho bộ môn Văn học trong nhà trường nói chung và trong các trường THPT nói riêng càng phát huy mạnh mẽ hiệu lực giáo dục phong phú của nó, góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục đích giáo dục của các nhà trường PT trong giai đoạn hiện nay.

doc 21 trang thuychi01 5751
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Đổi mới phương pháp giảng dạy văn bản chính luận qua bài “chiếu cầu hiền” (Ngô Thì Nhậm)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN CHÍNH LUẬN QUA BÀI “CHIẾU CẦU HIỀN” (NGÔ THÌ NHẬM)
	Người thực hiện: Lê Thị Thu
	Chức vụ: Giáo viên
	Đơn vị công tác: Trường THPT Quảng Xương 1	SKKN môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2017
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
 Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo từng thể loại là một vấn đề đã được đặt ra từ lâu trong thực tiễn giảng dạy văn học ở trường PT và từ lâu vẫn vẫn thường là mối băn khoăn, suy nghĩ, tìm tòi của phần lớn giáo viên dạy Văn ở trường THPT chúng ta. Điều băn khoăn, suy nghĩ tìm tòi ấy bắt nguồn từ một ý nguyện rất chính đáng là làm sao cho bộ môn Văn học trong nhà trường nói chung và trong các trường THPT nói riêng càng phát huy mạnh mẽ hiệu lực giáo dục phong phú của nó, góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục đích giáo dục của các nhà trường PT trong giai đoạn hiện nay.
Mục đích nghiên cứu. 
 Muốn đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất, việc giảng dạy Văn học phải được tiến hành sao cho phù hợp với đặc trưng của môn Văn học vừa mang bản chất xã hội, vừa là hiện tượng thẩm mỹ, hiện tượng nghệ thuật. Hai mặt này gắn liền khăng khít với nhau, thâm nhập vào nhau. Không chú ý một cách toàn diện đúng mức, việc giảng dạy Văn học rất dễ thiên về nội dung tư tưởng, chính trị một cách gò bó, cứng nhắc, hoặc thiên về hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ một cách phiến diện, trống rỗng. Giữ vững thế cân bằng trong khi phân tích nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học là bản lĩnh sư phạm của người giáo viên.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: 
 Văn chính luận là một đề tài đặc biệt, đòi hỏi một phương pháp, một cách thức phân tích giảng dạy phù hợp với nó. Bên những bài giảng văn theo thể loại thơ, truyện, kí, kịch ... Sách giáo khoa Văn học THPT mới có trích giảng một số tác phẩm văn chính luận. Vì vậy, việc đào sâu phương pháp giảng dạy văn chính luận có ý nghĩa thực tiến quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả việc giảng dạy văn chính luận trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu:
 Đối tượng trực tiếp của tôi là bài “ Chiếu càu hiền” ( Ngô Thì Nhậm), SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1( cơ bản), Nhà xuất bản giáo dục.
 Để thử nghiệm đề tài , tôi chọn học sinh lớp 11 C2 và lớp 11T2 Trường THPT Quảng Xương 1, năm học 2016 – 2017 để thực hiện.
Phương pháp nghiên cứu.
Dạy văn là một nghề sáng tạo, cá nhân giáo viên được tự do trongviệc lựa chọn những phương pháp tối ưu. Để thực hiện bài dạy này, tôi đã vận dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp đọc- hiểu, phương pháp diễn dịch, phương pháp qui nạp, phương pháp phân tích- tổng hợp... để khai thác , lí giải vận dụng và giúp học sinh tiếp cạn văn bản từ nhiều phía và có thể vận dụng vào thực tế.
- Phương pháp phát vấn bằng hệ thống câu hỏi từ dề đến khó: như câu hỏi phát hiện, câu hỏi tư duy, câu hỏi gợi mở, câu hỏi liên hệ...một cách hợp lí để kích thích sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, chủ động tích cực của học sinh.
- Phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp bình giảng, phương pháp lập luận bình luận ....làm cho bài giảng phong phú, sinh động hơn và hệ thống lập luận vủa văn bản lô gic, mạch lạc hơn.
=> Vận dụng tốt tất cả các phương pháp trên giúp tiết học trên diễn ra tự nhiên , nhịp nhàng giữa thầy và trò.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận:
 Dạy văn là dạy cho học sinh nhận ra trong tác phẩm văn chương nguồn tri thức vô cùng phong phú, đa dạng, hấp dẫn và bổ ích để bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ, để đời sống có ý nghĩa hơn và sâu sắc hơn. Dạy văn là dạy cách sống, dạy cách làm, dạy mở mang trí tuệ, bên cạnh đó còn dạy cho học sinh nắm vững kiến thức theo hệ thống mạch lập luận của văn bản. Từ đó, các em có thể biết cách kết hợp nhuàn nhuyễn giữa nội dung và nghệ thuật của văn bản.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
 2.2.1. Thực trạng :
 Mục đích của môn giảng văn trong nhà trường là giúp cho học sinh cảm thụ được đầy đủ nhất, lĩnh hội được sâu sắc nhất mọi giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong hình tượng tác phẩm văn học. Từ đó, giáo dục cho các em về tư tưởng, nhận thức, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ, cả về tư duy và ngôn ngữ nữa. Đọc, phân tích, giảng giải tác phẩm là nhằm vào mục đích đó: Làm cho học sinh cảm và hiểu hết những điều tác giả gửi gắm trong tác phẩm.
 Chính vì vậy, giảng dạy văn chính luận không khó về nội dung nhưng rất nan giải về mặt phương pháp nhằm giúp các em học sinh chẳng những hiểu mà còn cảm những " lời gan ruột" của tác giả.
2.2.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:
a. Về phía giáo viên:
 Phần lớn, những tác phẩm văn chính luận được đem trích giảng ( hoặc đọc thêm) trong chương trình THPT đổi mới đều có tính tư tưởng cao và giàu tính nghệ thuật. Bản thân những tác phẩm đó chẳng những có tác dụng thuyết phục lí trí người đọc bằng những lí luận sắc bén, lập luận chặt chẽ, lời văn hùng hồn, đanh thép mà có sức rung động tình cảm người đọc bằng những yếu tố trữ tình đậm đà, những ảnh hưởng và ngôn ngữ gợi cảm.
 Trong thực tế giảng dạy, chúng ta còn gặp những tiết giảng dạy khô khan, ít kích thích hứng thú học tập của học sinh. Tại sao chúng ta lại chưa thành công trong những tiết giảng dạy văn chính luận? Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng trong đó có một nguyên nhân là chúng ta chưa nắm thật chắc những đặc điểm của văn chính luận, chưa xuất phát từ đặc điểm của văn chính luận mà khai thác một cách thấu đáo những đắc sắc về nội dung và hình thức của tác phẩm. Do đó, chúng ta chưa chỉ cho học sinh thấy rõ cái sắc bén của lí lẽ, sự chặt chẽ của lập luận, tính chính xác và gợi cảm của ngôn ngữ ... để giúp học sinh hiểu và cảm nhận tác phẩm một cách sâu sắc, làm cho tác phẩm có sức thuyết phục một cách mạnh mẽ, vừa có sức rung động thấm thía, vừa đi vào khối óc, vừa thấm vào trái tim người đọc, người nghe.
b. Về phía học sinh: Các em không hề thích những tác phẩm văn chính luận.
 Nguyên nhân: Vì các em không có định hướng và nếu các em có chúi tâm vào đọc tác phẩm thì các em cũng chỉ đọc cái hay, cái bề nổi của những câu chữ mà thôi. Mặt khác, giáo viên không tạo được cho các em tâm thế tiếp nhận tác phẩm nên giờ học diễn ra nặng nề, tẻ nhạt, không có sự rung động, hứng thú.
 Với mục đích giúp các em không những cảm nhận và hiểu những tác phẩm văn chính luận đồng thời giáo viên tự trang bị cho mình những kiến thức về giảng dạy văn chính luận trong chương trình môn Văn THPT, Tôi đưa ra sáng kiến cải tiến nội dung, phương pháp dạy - học từ đó tôi chọn đề tài: " Đổi mới phương pháp giảng dạy văn bản chính luận qua văn bản " Chiếu cầu hiền"
 ( Ngô Thì Nhậm).
2.3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
2.3.1.Các giải pháp thực hiện.
2.3..1.1. Giúp học sinh tìm hiểu khái quát về văn bản chính luận:
 Nếu như trong tác phẩm thơ, tác giả dùng nhiều đến tưởng tượng và lấy ngôn ngữ tinh túy, hàm súc, giàu hình ảnh, nhạc điệu để phản ánh cuộc để biểu hiện cảm xúc sống của mình thì trong tác phẩm văn chính luận, tác giả lại đứng trên một lập trường quan điểm nhất định, vận dụng lí lẽ thực tế và dùng ngôn ngữ trực tiếp của mình để trình bày, phân tích, phê phán giải quyết những vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa khiến người đọc, người nghe không những hiểu và đồng tình với cách giải quyết của mình mà còn tham gia tích cực vào hướng giải quyết vấn đề đó. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi đã kết hợp với bài " Phong cách ngôn ngữ chính luận" để các em hình dung và khái quát thể loại văn chính luận.
Ví dụ: Giáo viên cho học sinh nghe trực tiếp giọng nói của Bác Hồ vào đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946: “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp”, sau đó đưa ra hai câu hỏi thảo luận:
Câu hỏi 1: Em hãy cho biết quan điểm, tư tưởng được bày tỏ trong đoạn trích là gì? Quan điểm, tư tưởng đó được triển khai như thế nào trong bài viết?
Câu hỏi 2: Em cảm nhận như thế nào về giọng điệu câu văn trong tác phẩm?
 Giáo viên yêu cầu học sinh chỉ ra được:
Tác phẩm thể hiện rõ lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến, thái độ dứt khoát với thực dân Pháp, kêu gọi cả nước quyết tâm đánh giặc.
Dùng lí lẽ, dẫn chứng để phơi bày dã taamxaam lược của kẻ thù từ đó giải thích thuyết phục mọi người cần tham gia đánh giặc cứu nước như thế nào?
Lập luận xác đáng, chặt chẽ.
Giọng văn hùng hồn, đanh thép, có sức truyền cảm mạnh mẽ.
Từ đó giáo viên chỉ ra cho học sinh: văn bản chính luận là những văn bản trực tiếp bày tỏ tư tưởng, lập trường, thái độ đối với những vấn đề thiết thực, nóng bỏng, đặc biệt là những vấn đề chính trị- xã hội. Chức năng cơ bản của văn chính luận là tuyên truyền, cổ động , giáo dục thuyết phục người đọc, người nghe để họ có nhận thức và hành động đúng. Cho nên, văn bản chính luận có tính công khai về chính kiến, tư tưởng, lập trường chính trị xã hội.
Vì vậy : Trong khi giảng văn chính luận, chúng ta cần chỉ ra cho học sinh rõ ý nghĩa thực tiễn của vấn đề, cần làm nổi bật tính chiến đấu sắc bén của văn bản, cần liên hệ giải quyết những vấn đề thiết thực về tư tưởng, về lập trường quan điểm cho học sinh. Có như vậy tác dụng trong bài giảng mới sâu sắc.
2.3.1.2 Giúp học sinh tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của văn chính luận:
2.3.1.2.1: Đặc điểm nổi bật của văn bản chính luận là sự chặt chẽ, mạch lạc của lí lẽ và lập luận theo tư duy lô gic.
Lập luận chặt chẽ, lí lẽ lô gic, bằng chứng xác thực là yêu cầu cao đối với văn nghị luận.[1]
 2.3.1.2.2: Văn chính luận có một đặc điểm nổi bật nữa là ngôn ngữ chính xác, trong sáng,cú pháp rõ ràng, chặt chẽ.
* Ngôn ngữ trong văn bản chính luận giàu sắc thái lí trí. Nó biểu hiện tập trung ở sự chính xác, trong sáng của từ ngữ và ở sự chặt chẽ, mạch lạc , giản dị và có sức mạnh lôi cuốn, có giọng điệu hùng hồn của cú pháp.
 Văn chính luận đòi hỏi “phải dùng từ với độ chính xác nghiệt ngã”(M.Gorki). Có dùng từ chính xác cao độ trong văn bản chính luận thì câu văn mới hàm xúc, ý mới nổi bật và người đọc, người nghe mới hiểu không hiểu sai ý người viết khi lập luận, trình bày vấn đề. Nhiều đoạn trích, tác phẩm được trích giảng học trong chương trình THPT được xem là mẫu mực về cách dùng từ đúng và xác đáng bởi lẽ nó phục vụ đắc lực cho việc phân tích, trình bày vấn đề được chính xác, rõ ràng và có sức thuyết phục mạnh mẽ. Tuy vậy, trong văn chính luận, tác giả cũng sử dụng ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm để biểu hiện tâm tư, tình cảm của mình trước vấn đề được đưa ra nghị luận. Thái độ tán thành hay phản đối, lòng căm giận hay tự hào...của người viết được bộc lộ qua những hình ảnh, nhịp điệu câu văn và qua ngôn ngữ gợi cảm.
Ví dụ: Khi giảng về cách ứng xử của các sĩ phu Bắc Hà – những người rất tài giỏi, am hiểu tinh thông về chữ nghĩa thánh hiền – khi Quang Trung lập ra triều đại Tây Sơn nhưng do quan niệm đạo đức bảo thủ, không nhận thấy chính nghĩa và sứ mệnh lịch sử của phong trào Tây Sơn nên bất hợp tác, thậm chí chống lại, đoạn từ:
“Trước đây thời.....vương hầu chăng?”, tôi đã yêu cầu học sinh như sau:
Câu hỏi 1: Trong đoạn văn, tác giả đã sử dụng bao nhiêu điển tích, điển cố? Nội dung mà nó biểu hiền là gì?
Câu hỏi 2: Với đói tượng là sĩ phu Bắc Hà – những người giỏi chữ nghĩa thánh hiền, dùng từ xác đáng như thế có hiệu quả như thế nào?
 Học sinh theo dõi đoạn văn, phát hiện các điển tích, điển cố, căn cứ vào chú thích để hiểu nội dung của chúng, từ đó chỉ ra hiệu qủa của chúng trong việc biểu đạt nội dung: 
- Tác giả dùng 9 điển tích, điển cố được rút ra từ sách vở cổ: các nhóm từ: “ ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, kiêng dè không dám lên tiếng, gõ mõ canh cửa, ra biển vào sông, chết đuối trên cạn”: hàm ý chỉ người ở ẩn dật, uổng phí tài năng hoặc những người làm quan nơi triều chính nhưng còn nghi ngại, kiêng dè, giữ mình là chính, chưa dám nói thẳng. Từ “ ghé chiếu” thể hiện thái độ khiêm tốn, sẵn sàng chờ đợi và trọng dụng người hiền của người xuống chiếu.
- Với đối tượng là sĩ phu Bắc Hà- những người giỏi chữ nghĩa thánh hiền – coi việc dùng điển tích, điển cố, người viết đã chỉ ra những cách ứng xử phổ biến của hiền tài khi Quang Trung ra Bắc phù Lê diệt Trịnh. Đồng thời vừa thấp thoáng chút châm biếm nhẹ nhàng, vừa tế nhị, đồng thời cũng cho biết vốn hiểu biết uyên thâm, tài văn chương, thì liệu rằng tài văn chương của Quang Trung là không có như các sĩ phu Bắc Hà nghĩ?
Vì vậy: trong khi giảng cách sử dụng ngôn ngữ trong văn bản chính luận một cách đúng mực cũng góp phần làm cho học sinh hiểu và cảm tác phẩm thấu đáo, giúp học sinh thấy rõ sức thuyết phục của tác phẩm về mặt lí trí cũng như tình cảm.
*.Văn chính luận đòi hỏi một kết cấu cú pháp chặt chẽ. Nó giúp cho việc trình bày lí lẽ được rõ ràng, trong sáng.
 Ta thường gặp trong tác phẩm chính luận nhiều câu dài ngắn đan xen. Nếu chúng sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với lí lẽ và cách lập luận có tác dụng làm nổi bật ý chủ đạo của vấn đề nghị luận. Trong văn chính luận, câu ngắn được sử dụng làm cho những vẫn đề trừu tượng, phức tạp của lí luận trở thành sáng tỏ.
Ví dụ: Trong “ Tuyên ngôn độc lập”, chủ yếu Người dùng câu văn ngắn. Tôi chỉ rõ cho học sinh: Những câu ngắn đặt gần nhau nêu lên những quan hệ lô gic rất chặt chẽ và làm cho câu văn có sức thuyết phục mạnh mẽ: “ Về chính trị, chúng không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào... Chúng ràng buộc dư luận, chúng thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiên, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”. Hay đặc biệt có câu chỉ có 9 từ mà nêu lên được cả cục diện chính trị: “ Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.” [2]
 Cũng có khi câu dài ngắn trong văn chính luận làm cho lời văn mạch lạc, lí luận sắc bén, ý tứ rõ ràng, chặt chẽ.
*. Văn chính luận thường có giọng hùng hồn, có sức lôi cuốn và cổ vũ lòng tin người đọc, người nghe.
 Ví dụ: Với tác phẩm “ Chiếu cầu hiền” ( Ngô Thì Nhậm), tôi yêu cầu học sinh phải thể hiện được tình cảm của người xuống chiếu cầu hiền: Lời lẽ nhún nhường, tâm huyết, mềm dẻo, giàu sức thuyết phục được thể hiện trong những câu như: “ Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”...
Chính vì vậy: Trong quá trình giảng văn chính luận cần chú ý đúng mức đến cách cấu cú pháp chặt chẽ và giọng văn hùng hồn, đặc biệt là những yếu tố trữ tình trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, giữa lí và tìn, chúng ta sẽ giúp cho học sinh hiểu bài thấu đáo và tác dụng thuyết phục của tác phẩm về cả mặt lí trí và tình cảm sẽ tăng lên gấp bội.
2.3.2.Các biện pháp tổ chức thực hiện:
2.3.2.1.Giảng văn chính luận với yêu cầu phát triển năng lực tư duy cho học sinh:
 Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề này: “ Trong nhà trường không phải là chúng ta nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn độn, tuy rằng kiến thức là cần thiết.Điều chủ yếu là làm sao giáo dục cho học sinh phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp diễn tả, rồi đến phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề. Ở Nhà trường điều chủ yếu không phải là rèn luyện trí nhớ mà rèn luyện trí thông minh”.[1]
 Giảng văn chính luận có nhiều thuận lợi thực hiện yêu cầu này hơn những thể loại khác vì đặc điểm nổi bật của văn chính luận là kết cấu rõ ràng, lập luận, suy luận chặt chẽ. Mỗi tác phẩm hay đoạn trích đều được kết cấu theo một trình tự nhất định: Có khi từ nguyên lý đến kết luận( tức là dùng lối suy luận diễn dịch), có khi đi từ tình hình cụ thể đến khái quát ( tức là lối suy luận qui nạp). Cho nên khi giảng, giáo viên chúng ta cần phân tích từng luận điểm theo kết cấu lô gic của nó để học sinh có thể nắm chắc và quen vận dụng các lối suy luận khoa học.
Ví dụ: Với tác phẩm “ Chiếu cầu hiền” (Ngô Thì Nhậm), tôi yêu cầu học sinh tư duy, suy luận chỉ ra hệ thống lập luận trong bài chiếu.
 Học sinh chỉ ra: Bài chiếu gồm 3 phần.
Phần 1: Từ đầu.... người hiền vậy : Thiên tính của người hiền tài là để cho đời.
Phần 2: Tiếp theo......buổi ban đầu của trấm hay sao? : Cách ứng xử của các bậc hiền tài Bắc Hà và nhu cầu của đất nước.
Phần 3: Còn lại: Con đường để người hiền tài cống hiến cho đất nước. 
=> Bài chiếu có lập luận chặt chẽ theo hướng quy nạp và diễn dịch, đi từ điểm tựa của lập luận: Hiền tài sinh ra là để phụng sự cho đời, đó mới là ý trời vậy. Tác giả đã phân tích thực trạng người hiền chưa ra giúp việc cho triều đại , phụng sự đất nước, những khó khăn của buổi ban đầu đang rất cần người hiền tài, từ đó bài chiếu đưa ra cách để tiến cử người hiền tài cho triều đại , khuyến khích sĩ phu Bắc Hà gạt bỏ mọi khó khăn và nghi ngại để tham gia triều chính, phụng sự đất nước.
2.3.2.2.Giảng văn chính luận gắn liền với vẻ đẹp lập luận và yếu tố biểu cảm:
 Đặc điểm nổi bật của văn chính luận là sự chặt chẽ, mạch lạc của lý lẽ và lập luận theo tư duy lôgic; đó là sự chính xác của ngôn ngữ, kết cấu rõ ràng, chặt chẽ của cú pháp và giọng văn hùng biện, truyền cảm có sức lôi cuốn, lay động người đọc, tôi gọi đó là vẻ đẹp lập luận. Vì lẽ đó, trong mỗi bài giảng văn chính luận , nhiệm vụ của mỗi người giáo viên là phải chỉ ra vẻ đẹp lập luận và yếu tố biểu cảm ở mỗi tác phẩm cho các em, giúp các em hiểu và cảm văn bản theo cách của một “ cái đầu tỉnh táo” và một “ trái tim nóng”.
Ví dụ : Trong văn bản “ Chiếu cầu hiền”(Ngô Thì Nhậm) để giúp học sinh nhận ra vẻ đẹp lập luận của tác giả ngay ở phần đầu, tôi đã định hướng tư duy của các em bằng hai câu hỏi trọng tâm :
Câu hỏi 1: Để đi đến kết luận mang ý nghĩa điểm tựa cho lập luận: Hiền tài cần phải phụng sự cho đời mới đúng là ý trời, tác giả đã xuất phát từ điều gì ? dẫn dắt ý ra sao?
Câu hỏi 2: Nhận xét khéo léo trong cách thức thuyết phục của tác giả bài chiếu?
 Học sinh thảo luận trả lời:
So sánh: Người hiền = sao sáng trên trời.
 Thiên tử = Bắc Đẩu.
Qui luật tự nhiên: Sao sáng ắt chầu về Bắc Đẩu.
Người hiền hướng về Thiên tử, làm sứ giả phục vụ cho Thiên tử: qui luật của con người, xã hội.
Lấy qui luật của tự nhiên để khẳng định qui luật của con ngươi, xã hội: người hiền tài phục vụ cho Thiên tử là lẽ tất yếu, hợp qui luật trong trời đất, ngược lại là trái qui luật.
Đặt các sĩ phu vào không gian vũ trụ-> được đánh giá đúng.
Thái độ trân trọng đề cao.
Hình ảnh được lấy từ sách Luận ngữ của Khổng Tử: Phù hợp với đối tượng là các nho sĩ trí thức -> có sức thuyết phục mạnh với các sĩ phu Bắc Hà.
Cách lập luận: Khẳng định qui luật, sau đó giả định điều ngược lại với qui luật.
Nghệ thuật lập luận ngắn gọn mà chặt chẽ, mềm mại mà sâu sắc.-> đánh giá ý thức về sứ mệnh và tinh thần tự nguyện phò vua giúp nước ở những người hiền tài.
Cũng với văn bản này, ở đoạn văn thể hiện sự cần thiết phải có người hiền tài giúp dân, giúp nước, tôi thấy cần phải định hướng giúp các em phân tích vẻ đẹp lập luận của tác giả Ngô Thì Nhậm. Tôi yêu cầu các em: 
Câu hỏi 1:Tác giả đã đưa ra những nội dung gì để khẳng định sự cần thiết phải có người hiền tài ra giúp triều đình?
Câu hỏi 2: Cách lập luận của tác giả còn hấp dẫn như thế nào?
Học sinh thảo luận trả lời:
Buổi ban đầu xây dựng nhà nước mới, nhiều thiếu xót, công việc bộn bề, biên ải chưa yên,dân chưa lại sức sau chiến tranh, sức cảm hóa của nhà vua còn chưa thấm nhuần-> cần phải có người giúp sức.
Khẳng định: một cá nhân không đủ sức, đủ tài để xây dựng nên cơ đồ lớn-> vai trò không thể thiếu một tập thể những người hiền tài.
Dẫn sách Luận ngữ: Hiện nay nhân tài không những không có mà còn rất nhiều.
Đặc biệt: câu hỏi tu từ: “ Há không có người hiền tài nào ra giúp triều đình hay sao?
Cách lập luận này buộc những đối tượng “ khó tính” là các sĩ phu Bắc Hà phải thay đổi cách ứng xử; “ đánh” đến tinh thần yêu nước và đặc biệt là
“ lòng tự ái” đáng cao quí của các bậc hiền tài
Rõ ràng Ngô Thì Nhậm đã nắm vững chiến lược cầu hiền của vua Quang Trung và đã thể hiện xuất sắc tư tưởng đó.
2.3.2.3.Giảng văn chính luận phải gắn liền với với rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh:
 Những tác phẩm văn chính luận được trích giảng trong chương trình THPT đều là những bài “ văn nghị luận mẫu mực”. Trong quá trình giảng văn trên lớp, giáo viên cần có ý thức chỉ cho học sinh làm quen với cách thức lập dàn ý, những thao tác lập luận của một bài văn nghị luận văn học hoặc bài văn nghị luận xã hội.
Ví dụ 

Tài liệu đính kèm:

  • docdoi_moi_phuong_phap_giang_day_van_ban_chinh_luan_qua_bai_chi.doc