SKKN Áp dụng đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khối THCS

SKKN Áp dụng đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khối THCS

Tại bất kì đất nước nào, những đổi mới ở giáo dục phổ thông mang tính cải cách giáo dục đều bắt đầu từ việc xem xét, điều chỉnh mục tiêu giáo dục với những kì vọng mới về mẫu người học sinh có được sau quá trình giáo dục. Tiếp theo mục tiêu giáo dục là việc xem xét để xác định những thay đổi cần thiết, thậm chí xây dựng lại những nội dung và cách thức giáo dục. Đó chính là các vấn đề về cải cách chương trình và quá trình giáo dục. Bên cạnh những đổi mới khá triệt để về nội dung giáo dục, những nỗ lực tích cực về đổi mới quá trình giáo dục đã được thúc đẩy, đặc biệt là những đổi mới về phương pháp dạy học trong nhà trường. Tinh thần đổi mới phương pháp dạy học là biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, tự khám phá và xây dựng kiến thức của một người học với vai trò dẫn dắt khéo léo không thể thiếu được của người giáo viên.

 Trong những năm qua những thay đổi trong cách dạy học của người giáo viên ở nước ta vẫn diễn ra chậm chạp với nhiều khó khăn. Nhiều nước Châu Á và nhiều nước đang phát triển đều có chung tình trạng như vậy. Có một lí do là các giáo viên sẽ rất khó thay đổi cách dạy học đã trở thành thói quen của họ nếu họ không thực sự hiểu được các vấn đề: Tại sao cần phải đổi mới phương pháp dạy học và phải đổi mới theo cách nào Cho đến nay ở một số giáo viên sự chuyển biến về phương pháp dạy học chưa được là bao chủ yếu vẫn là thông báo kiến thức định sẵn, vẫn là ‘‘Thầy đọc – trò chép’’, giáo viên quyết định toàn bộ quá trình dạy học. Học sinh thụ động tiếp thu, ghi nhớ, nhắc lại, dập khuôn. Lối dạy đó có thể làm cho học sinh có thể bắt chước, có thể đạt kết quả cao trong các kì thi kiểm tra kiến thức, nhưng lại tỏ ra yếu kém khi phải hoạt động sáng tạo, thực hành, giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn.

 

doc 20 trang thuychi01 9382
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Áp dụng đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khối THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Tại bất kì đất nước nào, những đổi mới ở giáo dục phổ thông mang tính cải cách giáo dục đều bắt đầu từ việc xem xét, điều chỉnh mục tiêu giáo dục với những kì vọng mới về mẫu người học sinh có được sau quá trình giáo dục. Tiếp theo mục tiêu giáo dục là việc xem xét để xác định những thay đổi cần thiết, thậm chí xây dựng lại những nội dung và cách thức giáo dục. Đó chính là các vấn đề về cải cách chương trình và quá trình giáo dục. Bên cạnh những đổi mới khá triệt để về nội dung giáo dục, những nỗ lực tích cực về đổi mới quá trình giáo dục đã được thúc đẩy, đặc biệt là những đổi mới về phương pháp dạy học trong nhà trường. Tinh thần đổi mới phương pháp dạy học là biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, tự khám phá và xây dựng kiến thức của một người học với vai trò dẫn dắt khéo léo không thể thiếu được của người giáo viên.
	Trong những năm qua những thay đổi trong cách dạy học của người giáo viên ở nước ta vẫn diễn ra chậm chạp với nhiều khó khăn. Nhiều nước Châu Á và nhiều nước đang phát triển đều có chung tình trạng như vậy. Có một lí do là các giáo viên sẽ rất khó thay đổi cách dạy học đã trở thành thói quen của họ nếu họ không thực sự hiểu được các vấn đề: Tại sao cần phải đổi mới phương pháp dạy học và phải đổi mới theo cách nào Cho đến nay ở một số giáo viên sự chuyển biến về phương pháp dạy học chưa được là bao chủ yếu vẫn là thông báo kiến thức định sẵn, vẫn là ‘‘Thầy đọc – trò chép’’, giáo viên quyết định toàn bộ quá trình dạy học. Học sinh thụ động tiếp thu, ghi nhớ, nhắc lại, dập khuôn. Lối dạy đó có thể làm cho học sinh có thể bắt chước, có thể đạt kết quả cao trong các kì thi kiểm tra kiến thức, nhưng lại tỏ ra yếu kém khi phải hoạt động sáng tạo, thực hành, giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn.
	Nếu cứ tiếp tục dạy và học thụ động như thế, giáo dục không thể đáp ứng được yêu cầu mới của xã hội, Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu đã và đang đòi hỏi đất nước chúng ta cần phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản chính là về phương pháp dạy học.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của BCH trung ương khóa VIII về những giải pháp trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ : ‘‘Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS’’.
‘‘Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích tực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ; Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh ’’ là định hướng đổi mới PPDH, được khẳng định trong nghị quyết của BCH Trung ương Đảng lần thứ 4 khóa VII, trong nghị quyết của BCH Trung ương Đảng lần 2 khóa VIII và được pháp chế hóa trong điều 24.2 của luật giáo dục.
Khác với các bộ môn khoa học khác, Vật Lí là bộ môn khoa học thực nghiệm. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là nghiên cứu các hiện tượng vật lí, tìm nguyên nhân, khám phá ra các định luật vật lí phục vụ lợi ích của con người, gắn liền với đời sống của con người. Vật lí là cơ sở cho nhiều ngành kĩ thuật. Những thành tựu của vật lí và kĩ thuật phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người về mọi mặt.
 	Mục đích của việc Dạy - học Vật Lí không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ cho học sinh những kiến thức, kĩ năng Vật Lí mà loài người đã tích lũy được, mà còn đặc biệt quan tâm đến việc làm cho ‘ Học vật lí ’ là quá trình kiến tạo, học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai tác và xử lí thông tin, tự hình thành tri thức, có năng lực và phẩm chất của con người mới tự tin, năng động và sáng tạo trong cuộc sống. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, dạy học sinh cách tìm ra chân lí. Chú trọng hình thành các năng lực (Tự học, sáng tạo, hợp tác) dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những ưu cầu của cuộc sống hiện đại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân học sinh và cho sự phát triển xã hội việc bồi dưỡng cho học sinh năng lực suy nghĩ độc lập, không dập khuôn, phát triển năng lực sáng tạo, năng lực hành động thực tiễn để tạo ra những kiến thức mới, phương pháp mới, những năng lực giải quyết vấn đề mới nhạy bén, hiệu quả, thiết thực và phù hợp với hiệu quả thực tế.
Muốn đạt được mục đích này trong dạy học Vật Lí thì việc dạy học vật lí phải được tiến hành thông qua các hoạt động của học sinh. Muốn đổi mới cách học thì phải đổi mới cách dạy, đổi mới cách dạy chính là đổi mới phương pháp. Vì vậy trong đổi mới phương pháp giáo dục thì phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Để có hiệu quả cao trong giảng dạy thì người giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu sử dụng những thành quả của những môn khoa học có liên quan, cần phải tiếp thu những thành tựu tiên tiến, những kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới. Để góp phần giải quyết những vấn đề trên tôi đã mạnh dạn sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu về đổi mới các phương pháp dạy học, các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp dạy học bộ môn vật lý nới riêng kết hợp với quá trình giảng dạy, sự giúp đỡ của đồng nghiệp để viết thành đề tài này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đối với môn khoa học thực nghiệm như vật lí, có thể nói : ‘’Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm’’ Nếu không có sự trải nghiệm nhất định trong thực tế thì sự lĩnh hội kiến thức không thể sâu sắc và bền chặt được. Hơn nữa sự hiểu biết thế giười Vật lí không thể đạt được đơn thuần bằng logic. Chỉ có những quan sát và tiến hành bằng thực nghiệm mới cho phép kiểm tra được sự đúng đắn của một nhận định về thế giới. Vì vậy yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đối với môn Vật lí còn có một sắc thái riêng, phải hướng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực nghiệm và cao hơn nữa, cho học sinh tập dượt giải quyết một số vấn đề vật lí trong thực tế. Bởi vậy Đề tài này tôi đã tìm và chọn lọc ra một số phương pháp dạy học tích cực cơ bản, phù hợp đặc trưng của bộ môn Vật Lí THCS, trong đó có sự kết hợp với các phương pháp dạy học khác, thông qua đó giúp bản thân tôi có cơ sở và định hướng tốt hơn, vững chắc hơn trong qua trình tham gia giảng dạy bộ môn vật lí. Tôi nghĩ nếu áp dụng đê tài này thường xuyên ngoài việc phát huy tính tích cực của người dạy còn tạo cho người học, cụ thể là học sinh THCS có thói quen học tập tích cực, chủ động sáng tạo trong hoạt động nhận thức, tạo cho các em hứng thú hơn khi học vật lí và giúp các em bước đầu làm quen với bộ môn vật lí thực nghiệm.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Áp dụng đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khối THCS.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Tham khảo các tài liệu có liên quan.
+ Rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy của bản thân.
+ Sưu tầm, tra cứu, học hỏi từ đồng nghiệp.
+ Vận dụng một số phương pháp chung của bộ môn, từ đó đưa ra một số biện pháp cụ thể đã áp dụng được trong thực tế giảng dạy và đạt hiệu quả.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo của đất nước hiện nay : Phải đào tạo ra thế hệ trẻ trở thành người lao động làm chủ đất nước, có trình độ văn hóa cơ bản, đáp ứng những nhu cầu kinh tế xã hội. Những con người có trí tuệ, có năng lực sáng tạo cũng như có phẩm chất, tư tưởng đạo đức tốt. 
Xuất phát từ nội dung, bản chất của quá trình dạy học, hoạt động nhận thức: Ý thức, năng lực của con người được biểu hiện, hình thành trong chính hoạt động của con người. Việc dạy học không chỉ quan tâm đến nhiệm vụ làm cho học sinh tiếp thu được một số kiến thức nào đó mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ phát triển trí tuệ ở học sinh cũng như năng lực áp dụng kiến thức trong những tình huống mới.
 Thực tế giáo dục hiện nay cũng như xu thế giáo dục của thế giới trong thời đại mới cho thấy việc phấn đấu cho học sinh tự tìm tòi, tự hiểu biết để phát triển, khai thác, hưởng thụ những thành quả lao động mà bản thân mình có được là điều cần thiết, chính vì vậy đổi mới phương pháp là vấn đề cấp bách của thời đại mới, nó là sự sống của giáo dục Việt Nam trên con đường hội nhập, sánh vai với các cường quốc. Năng lực sáng tạo đó phải được đào tạo, rèn luyện thành thói quen, phải được hình thành từ nhà trường phổ thông cũng như từ các bộ môn khoa học tự nhiên cụ thể là bộ môn vật lí, một bộ môn khoa học thực nghiệm, nó là cơ sở cho nhiều ngành kỹ thuật, các máy móc được chế tạo dựa trên các thành tựu vật lí như : Động cơ ô tô, máy bay được chế tạo dựa vào kiến thức về nhiệt Động cơ điện, vô tuyến, truyền hìnhđược chế tạo dựa trên các kiến thức về điện Những thành tựu của vật lí và kỹ thuật phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người về mọi mặt. Chính vì vậy đổi mới phương pháp trong dạy học vật lí không thể thiếu được.
Trên tinh thần đổi mới giáo dục theo hướng tích cực hiện nay việc dạy học các bộ môn khoa học nói chung cũng như bộ môn Vật Lí nói riêng. Tính ưu việt của phương pháp dạy học đã được thừa nhận và được đông đảo cán bộ giáo viên đồng tình, nhiệt liệt hưởng ứng.
 	Đề tài này đã đưa ra một số phương pháp dạy học cơ bản phù hợp với đặc trưng của bộ môn vật lí ở cấp THCS, qua đó đóng góp một phần nào đó cho việc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn vật lí nói riêng trong tình hình giáo dục chung của đất nước ta hiện nay. Nhằm tạo cho giáo viên có định hướng tốt hơn, vững vàng hơn, tự tin hơn trong việc soạn bài và giảng dạy đưa chất lượng giờ dạy được nâng cao hơn, có hiệu quả hơn, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, giúp học sinh hiểu bản chất vấn đề và ghi nhớ lâu, chính xác. Học sinh biết tiến hành thí nghiệm, áp dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề vật lí đơn giản, nhờ đó các em thêm yêu thích môn học vật lí.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong thực tế cách dạy học truyền thống vẫn còn ăn sâu vào tiềm thức của một số thế hệ giáo viên, do tính bảo thủ, trình độ chuyên môn còn hạn chế, khả năng thích ứng kém. Đối với một số giáo viên đã có ý thức vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng kết quả chưa được như mong đợi, chưa đáp ứng được tinh thần thực sự ‘‘đổi mới’’. Nguyên nhân của tình trạng trên được thể hiện ở một số điểm cơ bản như sau:
- Không ít bộ phận giáo viên chỉ chăm lo cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết để các em làm bài điểm cao mà không chú ý đến việc rèn luyện trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Điều này nguy hại là sau khi học xong các hiện tượng vật lí, các định luật về vật lí một số học sinh lại không biết vận dụng các hiện tượng, định luật nào đó để giải thích một số hiện tượng khoa học tự nhiên, không chỉ ra được ứng dụng rộng rãi của nó trong khoa học kĩ thuật. Giáo viên chưa áp dụng hợp lí còn máy móc không cải biến đối với các loại bài dạy, phần dạy. Trong phương pháp cụ thể nào đó giáo viên chưa xác định chính xác các bước đi, chưa tận dụng triệt để đồ dùng dạy học, đồ dùng thí nghiệm. 
- Trong quá trình dạy giáo viên chưa thực sự là người điều khiển dẫn dắt học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức. Do vậy học sinh chưa được và chưa có thói quen phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, phát triển tư duy mới.
- Giáo viên phải chuẩn bị và tiến hành TN trước khi tiến hành TN đó trên lớp, vì thế tốn khá nhiều thời gian và công sức. Điều này chưa được tính đến thỏa đáng đối với sức lao động của các giáo viên môn vật lí, nhất là hiện nay ở nhiều trường chưa có phòng TN cũng như cán bộ phụ trách phòng TN vật lí, không phải trường nào cũng đáp ứng được yêu cầu này.
- Từ thực tiễn của đất nước ta cho thấy còn có những vùng điều kiện kinh tế khó khăn, bó hẹp, tập quán lạc hậu, trang thiết bị chưa đạt chuẩn, cơ sở vật chất phục vụ quá trình giảng dạy rất hạn chế, không phát huy được tối đa những ưu điểm của phương pháp dạy học mới, dạy học tích cực. Cũng như không phải mọi học sinh đều sẵn sàng tham gia vào các hoạt động học tập mà giáo viên đề ra.
- Hiện nay nhiều trường chưa có phòng bộ môn để tổ chức các giờ học vật lí tại đó. Nghĩa là tới giờ học vật lí học sinh của lớp nào thì học sinh lớp đó đến phòng này để học, như vậy tránh được việc di chuyển thiết bị Tn từ phòng học này sang phòng học khác. Tránh việc mất thời gian lắp ráp lại các dụng cụ TN, có điều kiện bảo quản các thiết bị TN tốt hơn, thời gian sử dụng được lâu dài hơn.
- Ngoài ra ở một số trường hợp giáo viên quá thiên về phương pháp dạy học theo hướng tích cực, chưa thực sự hiểu rõ bản chất của phương pháp này để đưa vào áp dụng dạy học có thể làm ảnh hưởng thiên lệch trong tâm lí của trẻ, chẳng hạn : phủ nhận vai trò của môi trường, hoặc do quá đề cao vai trò người học có thể dẫn đến coi nhẹ vai trò của người dạy và học sinh có thể tự mãn. 
Kết quả của sự dạy và học đó làm cho giáo viên không có thói quen và kĩ năng trong phương pháp dạy học tích cực còn học sinh học tập chưa trở thành chủ thể của việc tiếp nhận kiến thức mới.
Trên thực tế khi chưa áp dụng đề tài này vào giảng dạy bộ môn vật lí ở các khối lớp tại đơn vị trường THCS Quảng Định tôi nhận thấy rằng học sinh tiếp nhận kiến thức rất thụ động, máy móc, không được phát triển về tư duy tích cực chủ động sáng tạo. Học sinh có thể nhớ và thuộc kiến thức nhưng không hiểu sâu bản chất của kiến thức, vận dụng kiến thức không linh hoạt nhạy bén, khả năng thực hành các thí nghiệm vật lí của các em chưa cao..
Kết quả mà bản thân tôi đã trực tiếp khảo sát, nắm bắt chất lượng cụ thể, điển hình ở khối 8 và khối 9 năm học 2014 – 2015 như sau:
Học lực
8A
8B
9A
9B
Giỏi
3%
4%
3%
5%
Khá
20%
27%
29%
31%
Trung bình
67%
60%
61%
58%
Yếu
10%
9%
7%
6%
Chính vì vậy phương pháp dạy học có quan hệ mật thiết với nội dung và kết quả dạy học. Có phương pháp phù hợp với nội dung bài học chắc chắn kết quả dạy học sẽ cao hơn rất nhiều so với các phương pháp truyền thống. 
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trước những thực trạng đó, tôi mạnh dạn đưa ra một số phương pháp dạy học tích cực áp dụng trong dạy học vật lí cấp THCS nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên. Trong từng phương pháp tôi có trình bày nội dung, cách thực hiện và ví dụ minh họa cho từng phương pháp đó.
2.3.1. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC KẾT HỢP HÀI HÒA HỌC TẬP CÁ NHÂN VỚI VIỆC HỌC TẬP HỢP TÁC THEO NHÓM
1. Bản chất:
Dạy học theo nhóm là một hình thức xã hội của hoạt động dạy học, lớp học được chia thành nhiều nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn. Tùy mục đích yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định, được duy trì ổn định hoặc thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng nhiệm vụ hoặc nhiệm vụ khác nhau.
Số lượng HS trong mỗi nhóm thường từ 6 đến 8 học sinh, các nhóm tự bầu ra nhóm trưởng. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc, như : Người lắp ráp thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm, thư kí ghi kết quả, báo cáo kết quả. Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần của một chủ đề chung.
Trong nhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không được ỷ lại một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc chung của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ của nhóm khá phức tạp.
2. Quy trình thực hiện
Có thể chia làm 3 giai đoạn cơ bản	
a. Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm (bao gồm những hoạt động chính sau) :
- Giới thiệu chủ đề chung, nhiệm vụ chung, những chỉ dẫn cần thiết, thông qua thuyết trình, đàm thoại hay làm mẫu.
- Xác định nhiệm vụ của các nhóm: Giải thích nhiệm vụ cụ thể của mỗi nhóm, đề ra các mục tiêu cụ thể mà nhóm cần đạt được.
- Tổ chức phân chia thành các nhóm và bố trí địa điểm làm việc cho từng nhóm. Có nhiều cách phân chia nhóm như: Chia thành các nhóm gồm cả học sinh khá và học sinh yếu kém để các em hỗ trợ nhau hoặc chia thành các nhóm gồm những học sinh có cùng năng lực... tạo cơ hội để mỗi học sinh được trao đổi, học tập với nhiều học sinh trong lớp.
b. Làm việc theo nhóm: 
- Nhóm trưởng phân công trong nhóm, sắp xếp chỗ làm việc cho các thành viên trong nhóm.
- Thảo luận kế hoạch làm việc của nhóm: Chuẩn bị tài liệu học tập, đọc tài liệu, nhóm trưởng điều hành các thành viên trao đổi để đảm bảo mọi người trong nhóm đã năm vững các yêu cầu nhiệm vụ được giao, phân công công việc cho các thành viên trong nhóm, lập kế hoạch thời gian tiến hành công việc của nhóm.
- Tiến hành thực hiện nhiệm vụ
- Chuẩn bị báo cáo kết quả làm việc của nhóm trước lớp.
c. Trình bày kết quả làm việc của các nhóm và đánh giá kết quả chung.
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
- Thảo luận chung cả lớp.
- Giáo viên tổng kết, nhận xét buổi làm việc.
d. Ví dụ về phương pháp theo nhóm nhỏ trong bài:
Tiết 14: bài 11: Thực hành: Nghiệm lại lực đẩy Acsimet (Vật lí 8) 
* Chuẩn bị dụng cụ thực hành cho mỗi nhóm: 
* (Theo yêu cầu bài thực hành) 
* Nội dung thực hành
- Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm:
+ Chia nhóm học tập, cử nhóm trưởng và thư kí các nhóm.
+ Mỗi nhóm được cung cấp một bộ dụng cụ thí nghiệm ( nhóm trưởng các nhóm nhận dụng cụ thí nghiệm ).
- Làm việc theo nhóm: Nhóm trưởng điều hành các thành viên trong nhóm tiến hành các công việc được giao:
+ Câu hỏi 1: Viết công thức tính độ lớn lực đẩy Acsimet ?
Trả lời: Công thức tính độ lớn lực đẩy Acsimet FA = d.V
Trong đó: d là trọng lượng riêng của chất lỏng
 	V là thể tích phần chất lỏng bị vật chiếm chỗ.
+ Câu hỏi 2: Vậy độ lớn của lực đẩy Acsimet bằn trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ. Muốn kiểm chứng độ lớn này cần phải đo đại lượng nào?
Trả lời: Ta phải đo độ lớn của FA và trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ. 
+ Câu hỏi 3: Ta phải đo các đại lượng đó như thế nào?
 	Trả lời : Nhóm thảo luận về phương pháp đo.
- Tiến hành thí nghiệm: 
Giáo viên giao nhiệm vụ và hướng dẫn cách làm việc trong nhóm bằng phiếu học tập sau :
Phiếu học tập
1. Đo lực đẩy FA
 a. Đo trọng lượng P của vật trong không khí.
 b. Đo hợp lực F của các lực tác dụng lên vật khi vật chìm trong nước.
 c. FA=
2. Đo trọng lượng của phần nước có thể tích bằng thể tích của vật.
 a. Đo thể tích vật nặng, cũng chính là thể tích của phần nước bị vật chiếm chỗ.
 - Đánh dấu mực nước trong bình khi chưa nhúng vật – vạch 1 (V1)
 - Đánh dấu mực nước trong bình khi nhúng vật – vạch 2 (V1)
 - Thể tích của vật V= ..
 b. Đo trọng lượng của nước có thể tích bằng thể tích của vật
 - Dùng lực kế đo trọng lượng của bình khi nước ở vạch 1, 
 P1= ..
 - Đổ thêm nước vào bình đến mức 2. Đo trọng lượng của bình khi nước ở vạch 2, P2=..
 - Trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ PN= 
Học sinh làm việc theo nhóm và điền kết quả vào mẫu báo cáo thực hành :
Mẫu báo cáo thực hành:
Nghiệm lại lực đẩy Acsimet ( Nhóm ..)
1. Kết quả đo FA
Lần đo
P(N)
F(N)
FA= P – 
(N)
1
2
3
Kết quả trung bình FA= = 
2. Kết quả đo trọng lượng phần nước có thể tích bằng thể tích của vật
Lần đo
P1(N)
P2(N)
PN= P1 – P2(N)
1
2
3
Kết quả trung bình P= = 
3. Nhận xét kết quả đo và rút ra kết luận: 
.
Giáo viên yêu cầu các nhóm báo cáo kết quả và thảo luận chung đi đến thống nhất, tổng kết.
3. Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp:
- Ưu điểm: 
+ Phát huy tính tích cực, tự lực và tinh thần trách nhiệm của học sinh. Dạy học theo nhóm hỗ trợ tư duy, tình cảm và hành động độc lập, sáng tạo của học sinh.
+ Phát triển năng lực cộng tác làm việc
+ Phát triển năng lực giao tiếp.
+ Hỗ trợ quá trình học tập mang tính xã hội.
+ Tăng cường sự tự tin cho học sinh.
+ Phát triển ở học sinh năng lực về phương pháp làm việc tập thể.
+ Cải thiện kết quả học tập của học sinh về phương diện tiến hành thí nghiệm.
Thành công của phương pháp này phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của các thành viên tr

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ap_dung_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_mon_vat_ly_nham_pha.doc