Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản tự sự hiện đại Việt Nam
- Môn Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong trường phổ thông, có ý nghĩa trong việc hình thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh. Học văn là học làm người, học các phép tắc ứng xử trong cuộc sống. Mặt khác, đây là một môn học nghệ thuật, kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sức sáng tạo của người học. Nên để dạy và học tốt môn Ngữ văn, người dạy và người học phải không ngừng trau dồi vốn kiến thức ngôn ngữ, từ vựng, các kiến thức liên quan về các hình thức nghệ thuật, các nhà văn, nhà thơ, các câu ca dao tục ngữ, lấy đó làm vốn sống, vốn kinh nghiệm cho bản thân.
- Trong một tác phẩm văn học có giá trị thì các hình thức nghệ thuật luôn thống nhất với nội dung. Bê-lin-xki, nhà phê bình lí luận văn học Nga viết rằng: “Trong tác phẩm nghệ thuật, nội dung và các hình thức nghệ thuật phải luôn hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm hồn và thể xác. Nếu hủy diệt hình thức nghệ thuật thì cũng là hủy diệt nội dung tư tưởng của tác phẩm và ngược lại cũng vậy”.
- Hê-ghen viết: “Tác phẩm văn học mà thiếu đi hình thức nghệ thuật thích đáng thì không phải là một tác phẩm văn học thực sự. Và đối với người nghệ sĩ khi đó sẽ là một biểu hiện tồi nếu như người ta nói rằng về nội dung thì tác phẩm anh tốt, nhưng nó thiếu đi các hình thức nghệ thuật thích đáng. Chỉ có những tác phẩm văn học mà nội dung và hình thức thống nhất với nhau mới là những tác phẩm văn học đích thực”.
- Trong môn Ngữ văn, người học chỉ chú trọng vào việc tìm hiểu về nội dung mà quên đi những hình thức nghệ thuật của tác phẩm thì lúc đó việc dạy và học chắc chắn sẽ không đạt hiệu quả cao. Nó trở nên khô khan, cứng nhắc, sống sượng. HS sẽ không hiểu sâu, hiểu hết được những điều mà tác giả muốn truyền đạt đến, đôi khi còn dẫn tới cách hiểu sai, lệch lạc giá trị của tác phẩm.
- Các hình thức nghệ thuật là yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm văn học nói chung và trong thể loại truyện ngắn tự sự hiện đại Việt Nam nói riêng. Người học phải nắm bắt được toàn diện tác phẩm, có một cái nhìn bao quát về cả nội dung và nghệ thuật. Bút pháp trần thuật mang nhiều ẩn ý.
TRƯỜNG THCS PHƯỚC MỸ TRUNG TỔ NGỮ VĂN GV: NGUYỄN NGỌC HÂN CHUYÊN ĐỀ TÌM HIỂU MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM I. Lí do chọn đề tài: 1. Cơ sở lí luận: - Môn Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong trường phổ thông, có ý nghĩa trong việc hình thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh. Học văn là học làm người, học các phép tắc ứng xử trong cuộc sống. Mặt khác, đây là một môn học nghệ thuật, kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sức sáng tạo của người học. Nên để dạy và học tốt môn Ngữ văn, người dạy và người học phải không ngừng trau dồi vốn kiến thức ngôn ngữ, từ vựng, các kiến thức liên quan về các hình thức nghệ thuật, các nhà văn, nhà thơ, các câu ca dao tục ngữ, lấy đó làm vốn sống, vốn kinh nghiệm cho bản thân. - Trong một tác phẩm văn học có giá trị thì các hình thức nghệ thuật luôn thống nhất với nội dung. Bê-lin-xki, nhà phê bình lí luận văn học Nga viết rằng: “Trong tác phẩm nghệ thuật, nội dung và các hình thức nghệ thuật phải luôn hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm hồn và thể xác. Nếu hủy diệt hình thức nghệ thuật thì cũng là hủy diệt nội dung tư tưởng của tác phẩm và ngược lại cũng vậy”. - Hê-ghen viết: “Tác phẩm văn học mà thiếu đi hình thức nghệ thuật thích đáng thì không phải là một tác phẩm văn học thực sự. Và đối với người nghệ sĩ khi đó sẽ là một biểu hiện tồi nếu như người ta nói rằng về nội dung thì tác phẩm anh tốt, nhưng nó thiếu đi các hình thức nghệ thuật thích đáng. Chỉ có những tác phẩm văn học mà nội dung và hình thức thống nhất với nhau mới là những tác phẩm văn học đích thực”. - Trong môn Ngữ văn, người học chỉ chú trọng vào việc tìm hiểu về nội dung mà quên đi những hình thức nghệ thuật của tác phẩm thì lúc đó việc dạy và học chắc chắn sẽ không đạt hiệu quả cao. Nó trở nên khô khan, cứng nhắc, sống sượng. HS sẽ không hiểu sâu, hiểu hết được những điều mà tác giả muốn truyền đạt đến, đôi khi còn dẫn tới cách hiểu sai, lệch lạc giá trị của tác phẩm. - Các hình thức nghệ thuật là yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm văn học nói chung và trong thể loại truyện ngắn tự sự hiện đại Việt Nam nói riêng. Người học phải nắm bắt được toàn diện tác phẩm, có một cái nhìn bao quát về cả nội dung và nghệ thuật. Bút pháp trần thuật mang nhiều ẩn ý. - Việc cần thiết là phải cho HS nắm được các biện pháp nghệ thuật trong một văn bản, xâu chuỗi, và thực hiện tích hợp trong ba phân môn. 2. Cơ sở thực tiễn: - Về phía HS: HS có nhiều hạn chế trong việc tiếp thu và cảm thụ tác phẩm tự sự. Một mặt do trình độ nhận thức của HS còn kém, chưa có tư duy sáng tạo. HS chưa nắm bắt được mối liên hệ giữa nội dung và hình thức của một tác phẩm. Hiện nay HS thường tham khảo các tài liệu chủ yếu từ mạng internet, nhiều trang chất lượng kém; khi tham khảo nhiều nguồn khác nhau không chính thống, HS bị lúng túng, thiếu tự tin, thiếu sự tìm tòi, đánh giá, phân tích chi tiết. Không phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của HS. HS chưa xác định được kiến thức trọng tâm Thực tế hiện nay HS bị lỗ hổng kiến thức từ các cấp lớp học, học trước quên sau. Cho nên các em rất khó tiếp thu được kiến thức của một văn bản khi chứa nhiều hình thức nghệ thuật. HS sẽ không nắm bắt được hết các giá trị của văn bản. Phân tích tác phẩm tự sự không bám sát vào hình thức nghệ thuật để chỉ ra cái hay cái đẹp của nội dung tác phẩm. Phần lớn HS chỉ biết diễn xuôi nội dung một cách cứng nhắc và gượng ép, vụng về, tách nội dung ra khỏi các hình thức tự sự. VD: Khi phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân thì HS chưa nắm được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, do đó không thể nào tìm hiểu được những chuyển biến trong đời sống tâm lí của ông Hai và người nông dân nói chung giai đoạn 1945. Nguyên nhân khách quan nữa là hiện nay do một số văn bản dài so với thời lượng từ 45-90 phút nghiên cứu trên lớp, HS rất khó có thể khai thác hết được toàn bộ các giá trị tác phẩm. - Về phía GV: Tình hình thực tế hiện nay là GV còn gặp không ít lúng túng trong thao tác xử lí bài giảng. VD có quá nhiều vấn đề trong một văn bản, GV nhiều khi hoang mang không biết nên chú trọng khai thác vấn đề nào. Có khi GV chỉ đi sâu khai thác nội dung, chưa chú trọng khai thác nghệ thuật văn bản hoặc khâu đặt câu hỏi tìm hiểu nghệ thuật còn gượng ép, đối phó. Việc đưa vào bài giảng quá nhiều nội dung tích hợp theo qui định cũng khiến GV gặp khó khăn khi giúp HS tìm hiểu mặt nghệ thuật của văn bản (do hạn chế về thời gian) Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn chuyên đề này để nghiên cứu thực hiện, hi vọng sẽ làm tăng chất lượng dạy và học, tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn. II. Phương pháp nghiên cứu: - Nghiên cứu tài liệu. - Điều tra thực tế, Phiếu thăm dò. - Dạy thực nghiệm. III. Mục đích nghiên cứu: - Giúp HS hiểu thêm về các biện pháp nghệ thuật trong văn bản tự sự hiện đại Việt Nam. - Biết cách phân tích và đưa ra tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó trong mối liên hệ với nội dung tác phẩm. - Biết vận dụng các hiểu biết để phân tích các tác phẩm tự sự nói chung và tác phẩm tự sự hiện đại Việt Nam nói riêng. - GV có thể áp dụng vào các bài dạy, biết cách khai thác và truyền thụ tốt hơn tới HS các hình thức nghệ thuật. IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Giới hạn ở đối tượng HS khối 9 trường THCS Phước Mỹ Trung - Phạm vi là các văn bản tự sự hiện đại Việt nam sau Cách mạng tháng Tám (trong 2 cuộc kháng chiến của dân tộc và giai đoạn sau 1975). Gồm 4 tác phẩm: 1. Làng - Kim Lân - 1948 2. Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long - 1970 3. Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng - 1966 4. Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê - 1971 - Bài dạy thực nghiệm: Văn bản Chiếc lược ngà - NV9 (HKI) V. Nội dung và cách tiến hành: 1. Một số khái niệm và kiến thức liên quan: Khi tìm hiểu văn bản tự sự thì bắt buộc người GV cần nắm vững những khái niệm liên quan để khai thác tốt nhất văn bản. - Tác phẩm tự sự: Khác với tác phẩm trữ tình, hiện thực được tái hiện qua những cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ con người, được thể hiện qua những lời lẽ, bộc bạch, thổ lộ. tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó. Qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó. Đây là yếu tố đặc trưng để nhận diện tác phẩm tự sự (hiểu rộng ra: tác phẩm tự sự gồm anh hùng ca, sử thi, truyện thơ, trường ca, thơ trường thiên, truyện ngụ ngôn,). - Truyện ngắn tự sự (nghiên cứu trong phạm vi nhỏ): Là hình thức ngắn của tự sự, khuôn khổ ngắn, tái hiện lại cuộc sống đương thời. Nội dung của truyện ngắn có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự, hay sử thi. Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời, một đoạn đời hay một chốc lát trong cuộc sống nhân vật. Cái chính của truyện ngắn không phải là hệ thống sự kiện mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời. Truyện ngắn nói chung không phải là vì truyện của nó ngắn mà vì cách nắm bắt cuộc sống của thể loại: ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Ở truyện ngắn, bút pháp trần thuật thường là chấm phá; kết cấu thường là sự liên tưởng, tương phản. Ý ghĩa quan trọng nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và mang nhiều ẩn ý. - Nhân vật: Nhân vật là những con người có hành động, ngôn ngữ và tính cách. Nhân vật là trung tâm của truyện, thể hiện các quan điểm của tác giả. Nhân vật trong truyện ngắn thường là một mảng nhỏ của thế giới. Tồn tại các kiểu nhân vật như: + Nhân vật chức năng (hay mặt nạ), không có đời sống nội tâm, phẩm chất và đặc điểm cố định đến cuối truyện + Nhân vật loại hình: thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức của một loại người nhất định trong xã hội (Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa). + Nhân vật tính cách: là nhân vật có diễn biến nội tâm phức tạp, không đồng nhất, thường có một quá trình phát triển với nhiều cung bậc, tâm trạng khác nhau. (Thu trong Chiếc lược ngà, ông Hai trong Làng, Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi) có diễn biến phức tạp, đa dạng, nhiều chiều. + Nhân vật tư tưởng: Nhân vật này cũng thể hiện một cá tính, một nhân cách nhưng cái chính là một hiện tượng tư tưởng, một thức diễn ra trong đời sống. (nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu – đã giảm tải). - Cốt truyện: Là hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Bất cứ truyện lớn, truyện nhỏ cốt truyện nói chung cũng bao gồm các thành phần chính là thắt nút - phát triển - cao trào - mở nút. Có cốt truyện thì đơn giản (như truyện Lặng lẽ Sa Pa - cốt truyện chỉ xoay quanh một tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn - nhân vật chính chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng để lại cho các nhân vật khác nhiều tình cảm tốt đẹp), có cốt truyện thì phức tạp. Mục đích của cốt truyện là giúp người đọc nhận ra một điều gì đó. - Kết cấu: Đây là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Trên một phương diện lớn có thể nói sáng tác tức là kết cấu, đó là việc xây dựng tác phẩm, xây dựng cốt truyện, xây dựng tính cách. Là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và nội dung tư tưởng trong tác phẩm văn học. - Trần thuật: Là yếu tố quan trọng trong văn bản tự sự. Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Đây là sự thể hiện của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới người thưởng thức. 2. Đặc điểm của văn bản tự sự hiện đại Việt Nam: - Nằm trong chương trình ngữ văn lớp 9, sáng tác theo 3 giai đoạn chính: + Kháng chiến chống Pháp (Làng) + Kháng chiến chống Mĩ (Chiếc lược ngà, Lặng lẽ Sa Pa, Những ngôi sao xa xôi). + Sau 1975 - giai đoạn đất nước thống nhất. (Bến quê – đã giảm tải). - Về đề tài và nội dung các tác phẩm này rất đa dạng, mở ra những bức tranh phong phú về đời sống và con người ở rất nhiều vùng, miền đất nước, trong nhiều hoàn cảnh, với những tính cách và số phận khác nhau. Qua các tác phẩm này đã hình thành ở HS những hiểu biết sơ lược bước đầu về thành tựu và đặc điểm của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám - 1945 như các nội dung: + Hình ảnh con người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ (ông Hai có tình yêu làng đặt trong tình cảm yêu nước và kháng chiến; Bé Thu có tính cách cứng cỏi, tình cảm nồng nàn, thắm thiết với cha; Ông Sáu, hay ba cô TNXP có tinh thần dũng cảm không sợ hi sinh, tình cảm trong sáng, hồn nhiên, lạc quan trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt). + Tình yêu quê hương đất nước, trân trọng vẻ đẹp bình dị của quê hương. (nhân vật Nhĩ - Bến Quê cảm nhận vẻ đẹp của quê hương mình lúc nằm trên giường bệnh) + Vẻ đẹp của con người lao động bình dị, chân chính (anh thanh niên với công việc thầm lặng, tính cách cao đẹp, cống hiến sức mình cho đất nước). 3. Các biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng và cách khai thác tìm hiểu: Các tác giả tích cực tìm tòi các đề tài và đưa vào đó những hình thức nghệ thuật mới lạ, phức tạp, đòi hỏi GV và HS phải nắm chắc kiến thức và cách triển khai, phân tích một tác phẩm. Như cốt truyện, người kể chuyện, nhân vật, ngôn ngữ, các lời đối thoại, độc thoại và cả độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự, nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật, hệ thống ngôn ngữ, sử dụng bút pháp tái hiện hiện thực nghiêm ngặt, hay cách tạo tình huống truyện, hay cách sử dụng ngôn ngữ địa phương. 3.1 Phương thức trần thuật (người kể chuyện trong văn bản tự sự): - Trong mỗi văn bản tự sự hiện đại Việt Nam lại có sự xuất hiện của người kể chuyện khác nhau (hay nói cách khác là ngôi kể). Người kể chuyện là người đứng ra kể câu chuyện trong tác phẩm. Người kể chuyện có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những ngôi kể khác nhau, khi vô nhân xưng, khi nhập vào một nhân vật trong truyện, thông thường trong văn bản tự sự hiện đại Việt Nam người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” hoặc là ngôi thứ ba. Và khi trình bày miêu tả thì người kể chuyện thường gắn với điểm nhìn nào đó. Điểm nhìn là vị trí quan sát của người kể chuyện khi thuật lại truyện. Có 3 loại điểm nhìn trong một văn bản tự sự: + Điểm nhìn bên trong (điểm nhìn thông qua đôi mắt của một nhân vật trong truyện) + Điểm nhìn bên ngoài: một người quan sát bên ngoài, khách quan, trung tính, không đi sâu vào tâm lí nhân vật. + Điểm nhìn thấu suốt: người kể chuyện có mặt ở khắp mọi nơi, thấy tất cả mọi hành động, tư tưởng, tình cảm của nhân vật và đưa ra nhận xét đánh giá về họ. - Khi nghiên cứu và phân tích tác phẩm, GV không nên đánh đồng người kể chuyện với tác giả ngay cả khi người kê chuyện xưng “tôi”. Trong các tác phẩm truyện ngắn hiện đại Việt Nam, vấn đề người kể chuyện và việc thay đổi các điểm nhìn khác nhau rất có ý nghĩa. Nó giúp tác giả bộc lộ tư tưởng, tình cảm và suy nghĩ của mình một cách sinh động. Khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp, khi thì đi sâu vào tâm lí từng nhân vật, khi miêu tả thì rất lạnh lùng, khách quan, tạo ra cái nhìn nhiều chiều và tránh được sự đơn điệu trong giọng văn trần thuật. GV có thể đặt câu hỏi để khai thác nghệ thuật này như sau: “Truyện được kể theo ngôi thứ mấy, ngôi kể này có tác dụng gì trong việc miêu tả tâm lí nhân vật?” Ngôi kể này giúp cho người kể dễ đi sâu vào tâm tư, tình cảm, miêu tả được nhiều diễn biến tâm lí tinh vi, phức tạp đang diễn ra trong tâm hồn nhân vật “tôi”, ở đây là Phương Định. Qua đây, Lê Minh Khuê đã tạo được thuận lợi để biểu hiện đời sống nội tâm với nhiều hình thức cảm xúc ấn tượng, hồi tưởng của Phương Định, làm nổi bật rõ vẻ đẹp trong sáng và hồn nhiên của Phương Định. Qua ngôi kể này ta có thể thấy được tâm lí phức tạp qua một lần phá bom, hay trước cơn mưa đá bất chợt, điều mà ngôi kể khác không làm được. Tuy nhiên lưu ý rằng ngôi kể này cũng có hạn chế trong việc miêu tả bao quát các đối tượng khách quan sinh động, khó tạo ra cái nhìn nhiều chiều. Bằng chứng là ta ít biết về những rung động trong tâm lí nhân vật Nho, Thao. Họ chỉ xuất hiện qua cái nhìn của người kể chuyện. - Ngoài hình thức kể trên, còn thường xuất hiện hình thức kể chuyện theo ngôi thứ 3, qua đó người kể giấu mình nhưng có mặt ở khắp mọi nơi trong tác phẩm. Người kể chuyện này dường như biết hết mọi việc, mọi hành động, tâm tư, tình cảm, của các nhân vật. Người kể chuyện có vai trò dẫn dắt người đọc đi vào câu chuyện giới thiệu nhân vật và tình huống truyện, tả người và tả cảnh vật, đưa ra các nhận xét và đánh giá về điều được kể. Trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”, người kể chuyện dường như biết hết mọi thay đổi tâm lí tình cảm của anh thanh niên, cô kĩ sư hay ông họa sĩ. - GV có thể cho HS so sánh tác dụng và hạn chế của từng ngôi kể bằng việc đưa ra một số những câu hỏi so sánh.Ví dụ: “Em hãy cho biết ngôi kể này có ưu điểm và hạn chế gì so với các ngôi kể khác trong việc thể hiện nội dung tác phẩm và tâm lí nhân vật?”. GV có thể cho HS thay ngôi kể cho một đoạn văn trong một tác phẩm, để làm rõ sự khác nhau trong cách miêu tả nhân vật và thấy được ưu - nhược điểm của từng loại. 3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật: - Đây là yếu tố rất quan trọng trong văn bản tự sự. HS có nắm chắc được sự thay đổi tâm lí nhân vật, nắm được những rung động tinh vi và sắc sảo thì mới hiểu hết về các phẩm chất tính cách của nhân vật. Tùy từng nhân vật khác nhau, từng tác phẩm khác nhau và tùy thuộc vào xu hướng miêu tả của tác giả mà khắc họa được sự thay đổi tâm lí của nhân vật. GV phải làm cho HS thấy được sự miêu tả tâm lí phức tạp của tác giả, bằng cách sử dụng một hệ thống câu hỏi tích hợp, gợi mở, liên tưởng, làm cho HS nhận thấy nghệ thuật đặc sắc và mối liên hệ với nội dung tác phẩm. VD: Lê Minh khuê cũng đã rất thành công khi miêu tả nhân vật Phương Định qua nhiều phương diện. Là một cô gái Hà Nội, hình thức khá, có bím tóc dày, cổ cao kiêu hãnh như một đài hoa loa kèn, Phương Định yêu thương những người đồng đội của mình, cô có một thế giới nội tâm khá phức tạp. Qua một lần phá bom, tâm lí của Phương Định hiện lên thật rõ nét. GV có thể cho HS sắp xếp sự diễn biến tâm lí của Phương Định theo như văn bản đã miêu tả. Câu hỏi tích hợp “Em còn bắt gặp biện pháp nghệ thuật này ở những văn bản đã học nào?” - VD tiếp, để nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật ông Hai của Kim Lân thì trong khi phân tích diễn biến tâm lí nhân vật này, GV có thể đưa câu hỏi gợi ý cho HS nhận xét: “Tâm lí nhân vật được thể hiện qua những phương diện nào (hành động, ngôn ngữ độc thoại và đối thoại)? Diễn biến tâm lí nhân vật có hợp lí không? Kim Lân đã đặt nhân vật ông Hai vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Tác giả đã miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữđặt biệt, diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. GV làm cho HS hiểu việc chứng tỏ rằng Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần của họ. - GV cũng cần làm cho HS hiểu về đặc sắc ngôn ngữ của nhân vật ông Hai: đó là ngôn ngữ mang đậm tính khẩu ngữ và là lời ăn tiếng nói cảu người nông dân. Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, do truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật ông Hai. 3.3 Cách tạo tình huống truyện: Nghệ thuật tạo tình huống truyện đặc biệt thành công qua hai tác phẩm văn bản tự sự hiện đại Việt Nam là “Làng”, “Lặng lẽ Sa Pa”. Tình huống truyện là yếu tố do tác giả sáng tạo ra để bộc lộ phẩm chất của một hay nhiều nhân vật. Tình huống truyện có thể rõ rệt, có thể mờ nhạt, có thể gay cấn. Và sau khi tình huống truyện được giải đoán thì ta sẽ thấy được tâm trạng của nhân vật được bộc lộ rõ nét hơn rất nhiều. VD: Ở tác phẩm “Làng” tác giả đặt nhân vật ông Hai vào tình huống rất gay cấn để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông, tình huống ấy là cái tin làng ông đã theo giặc - mà chính ông đã nghe được từ những người tản cư. Đây là một tình huống, một nét nghệ thuật quan trọng mà trước khi tìm hiểu tình yêu quê và tinh thần yêu nước của ông Hai không thể không nghiên cứu. Nếu GV bỏ qua hoặc lướt qua tình huống truyện này thì coi như việc phân tích nhân vật ông Hai và tìm hiểu giá trị của tác phẩm không thành công. 3.4. Nghệ thuật tái hiện hiện thực: Hiện thực được tái hiện thông qua cái nhìn chủ quan của tác giả đã đưa vào tác phẩm. Tạo cái nền cho hệ thống các sự kiện, nhân vật thể hiện và bộc lộ tính cách của mình. GV cũng phải cho HS thấy được hiện thực đã được đưa vào tác phẩm như thế nào, từ đó HS hình dung ra một khung cảch chân thực trong tác phẩm. Nhìn chung, sự tái hiện hiện thực của các tác giả trong giai đoạn sáng tác này đều dựa vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước. Đó là các giai đoạn kháng chiến ác liệt của dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mĩ. Không khí khẩn trương xây dựng hòa bình ở miền Bắc, và sau khi đất nước thống nhất đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. - Khi học văn bản “Những ngôi sao xa xôi”, GV phải làm tái hiện được khung cảnh của một cao điểm trên tuyến đường Trường Sơn đầy bom đạn. Có thể sử dụng các câu hỏi để HS liên tưởng, và so sánh với khung cảnh chiến tranh ở hiện thực ngoài cuộc sống. - Hay Qua văn bản “Lặng lẽ Sa Pa”, em thấy quang cảnh ở đây được miêu tả như thế nào? Quang cảnh đó có tác dụng gì trong việc thể hiện phẩm chất của anh thanh niên? Khi đó HS sẽ hình dung ra một khung cảnh vắng vẻ, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, trên một đỉnh núi cao - từ đó giúp bộc lộ tâm trạng cô đơn, trống trải. Điều này càng tô đậm thêm vẻ đẹp của anh thanh niên. GV có thể so sánh với các hiện thực của các tác phẩm thơ trong giai đoạn này như bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu tái hiện lại cảnh người lính đứng gác trong đêm, dưới ánh trăng, hay “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật – hiện thực hiện lên thật trần trụi, chân thực. GV có thể tái hiện lại hiện thực vể con người và cảnh vật bằng các hình thức khác như nghe nhạc, xem phim ảnhVD trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi, GV có thể cho HS nghe một đ
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_tim_hieu_mot_so_bien_phap_nghe_thuat_t.doc