Sáng kiến kinh nghiệm Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh Lớp 5 dân tộc thiểu số qua Tiết đọc thư viện
1. Các định nghĩa, khái niệm
1.1. Tăng cường Tiếng Việt là gì?
Tăng cường Tiếng Việt là các biện pháp giúp học sinh học Tiếng Việt có hiệu quả.
1.2. Khái niệm về Thư viện
- Theo ý nghĩa truyền thống, thư viện là kho sưu tập sách, báo và tạp chí.
- Định nghĩa mới nhất của UNESCO: Thư viện không phụ thuộc vào tên gọi, là bất kì bộ sưu tập có tổ chức của sách, báo, tài liệu các loại, ấn phẩm định kì. Nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài liệu để tra cứu thông tin, giáo dục và giải trí.
1.3. Thư viện thân thiện là gì?
Thư viện thân thiện là nơi học sinh được khuyến khích và hỗ trợ cho việc đọc một cách tích cực trong một môi trường thân thiện và an toàn.
1.4. Khái niệm Tiết đọc thư viện
- Tiết đọc thư viện được đưa vào thời khóa biểu của trường, thời gian dành cho một tiết đọc thư viện tương đương với thời gian dành cho một tiết của các môn học khác.
- Tiết đọc thư viện được giáo viên đã tham gia tập huấn thực hiện.
- Tiết đọc thư viện nên tổ chức ở thư viện. Nếu trường có số lớp đông và không thể tổ chức toàn bộ tiết đọc trong thư viện thì Tiết đọc thư viện có thể diễn ra ở lớp học.
- Trong tiết đọc thư viện có các hoạt động đọc chính giúp phát triển thói quen đọc sách của học sinh. Những hoạt động đọc không tập trung vào dạy kỹ năng đọc mà mục đích chính của tiết đọc thư viện là hình thành và phát triển thói quen đọc sách.
2. Các quan điểm khoa học
Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc tiểu học. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic cho học sinh, việc học Tiếng Việt sẽ giúp các học sinh hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, các em sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm.
Tiếng Việt vừa là môn học cơ bản, vừa là môn học công cụ để học sinh tiếp thu tri thức, kỹ năng của các bộ môn khác trong chương trình giáo dục và hướng đến việc hình thành kỹ năng sống cần thiết cho học sinh.
Thư viện trường học là một bộ phận cơ sở trọng yếu, là trung tâm sinh hoạt văn hóa, khoa học của nhà trường. Thư viện trường học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, xây dựng thói quen tự học cho học sinh. Mặt khác, thư viện trường học còn tạo cơ sở từng bước thay đổi phương pháp dạy và học, xây dựng nếp sống văn hóa cho các thành viên trong nhà trường.
Thư viện trường học giúp học sinh tự bổ sung kiến thức. Cũng chính ở thư viện trường học, các em tự rèn luyện tính độc lập, tư duy và thói quen tự học. Qua các tác phẩm mà các em đã đọc, sẽ hình thành cho các em tình cảm đúng đắn, giúp các em hiểu thêm về con người, về đất nước và cuộc sống.
Theo Tạp chí Bộ Giáo dục và Đào tạo: Hiện nay tại các trường Tiểu học ở Việt Nam tồn tại 2 kiểu thư viện: Thứ nhất, thư viện không được đầu tư cả cơ sở vật chất và sách phục vụ học sinh. Mặc dù được gọi là thư viện, nhưng thực sự là nhà kho của trường. Thứ hai, thư viện được đầu tư tốt về cơ sở vật chất, nhưng vẫn thiếu sách phục vụ học sinh. Sách trong thư viện này phần lớn là sách phục vụ giáo viên. Sách phục vụ học sinh được khóa trong tủ và học sinh tìm sách qua danh mục sách. Điều này cản trở học sinh tiếp cận với sách và lựa chọn cho mình quyển sách phù hợp. Ngoài ra, một không gian thư viện phục vụ chung cả giáo viên và học sinh cũng khiến học sinh không cảm thấy thoải mái khi đến thư viện.
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề gì Điều 4 chương I – Luật phổ cập Giáo dục Tiểu học quy định: “Giáo dục tiểu học được thực hiện bằng Tiếng Việt”. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ phổ thông sử dụng trong giao tiếp. Môn Tiếng Việt là môn học có vai trò quan trọng đối với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. Chính vì vậy, mọi trẻ em bước vào bậc tiểu học cần phải có được một vốn kiến thức cơ bản, cần thiết với những kĩ năng quan trọng như nghe – nói – đọc – viết tiếng Việt để tham gia hiệu quả vào quá trình học tập và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Việc nghe – nói – đọc – viết đúng tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số là vấn đề mỗi giáo viên cần phải quan tâm, điều đó không chỉ khẳng định chất lượng dạy học của nhà trường, năng lực của giáo viên mà còn khẳng định khả năng nhận thức của học sinh dân tộc thiểu số khi học ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ. Văn chương hướng con người tới chân, thiện, mỹ, giúp con người hoàn thiện nhân cách để trở nên hữu ích cho xã hội. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy, sự tác động của văn hóa đọc với sự hình thành cá tính và nhân cách ở lứa tuổi thiếu nhi (từ 5 - 14 tuổi) đặc biệt là lứa tuổi học sinh tiểu học (7 - 11 tuổi) là rất mạnh mẽ. Do ở lứa tuổi đó, các em còn chưa tự định hướng trong tiếp nhận thông tin nên việc sử dụng và biến sách báo tài liệu trở thành công cụ và phương tiện để giáo dục là việc làm hữu ích và đem lại hiệu quả to lớn. Chúng ta cần thúc đẩy nhu cầu và hứng thú đọc sách cho các em lứa tuổi tiểu học là tạo ra môi trường đọc sách hiện đại, thân thiện, biến những cuốn sách và thư viện trở thành thú vị, dần dần xây dựng xã hội đọc sách và cao hơn là xã hội học tập. Để đáp ứng nhu cầu đọc sách của học sinh, thư viện thân thiện đã ra đời. Đây là một mô hình thư viện của nước ngoài được đưa vào các trường học, được cụ thể hóa trong một tiết học “Tiết đọc thư viện”. Trong Tiết đọc thư viện có các hoạt động đọc chính giúp phát triển thói quen đọc sách của học sinh. Những hoạt động đọc không tập trung vào dạy kỹ năng đọc mà mục đích chính của tiết đọc thư viện là hình thành và phát triển thói quen đọc sách của học sinh. Tuy nhiên, khi các em đã có thói quen đọc sách thì kỹ năng đọc sách sẽ phát triển và đồng thời sẽ phát triển về tư duy ngôn ngữ cũng như học tập được nhiều điều bổ ích. Trên địa bàn xã Ea Bông, dân tộc Ê – đê chiếm phần lớn dân số của xã. Đặc biệt trường Tiểu học Ea Bông là trường đặc thù có học sinh dân tộc Ê – đê chiếm 71% số học sinh toàn trường và đều là con em của hai buôn vùng đặc biệt khó khăn: Buôn Knul và Buôn Riăng. Một số em nói, đọc chưa đúng một số hoặc nhiều tiếng, từ ngữ tiếng Việt và đặc biệt là sai hoặc thiếu dấu thanh. Kĩ năng giao tiếp, diễn đạt bằng tiếng Việt còn rất hạn chế, các em giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ và chỉ dùng tiếng Việt trong các tiết học hoặc khi giao tiếp với thầy cô giáo. Do đó, việc dạy và học Tiếng Việt để đạt được kiến thức và kĩ năng là một điều hết sức khó khăn cho trường cũng như các trường trong địa bàn. Vì đây là ngôn ngữ thứ hai của các em, khả năng tiếp thu của các em chậm, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời lượng và các hoạt động trong một tiết dạy. Vì vậy, cần có một bộ môn, một tiết học phù hợp để rèn luyện, hướng dẫn sửa sai cho học sinh đọc, nói đúng tiếng Việt. Xuất phát từ thực tế đang giảng dạy, tôi nghiên cứu: Học sinh dân tộc thiểu số lớp 5C, trường Tiểu học Ea Bông còn yếu về kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt. - Phạm vi nghiên cứu: Thực nghiệm biện pháp, hình thức tổ chức tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số tại lớp 5C, trường Tiểu học Ea Bông, xã Ea Bông, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk. Phương pháp rèn luyện nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt cho học sinh trong Tiết đọc thư viện. - Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ ngày Tiết đọc thư viện được đưa vào chương trình giảng dạy 10/9/2018 đến nay. Đây là tiết học mới nhưng Tiết đọc thư viện này giống như một buổi vào thư viện đọc sách ở cấp học phổ thông trước đây; điểm khác biệt là học sinh vào thư viện dưới sự hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm, được giáo viên đưa vào kế hoạch dạy học, thiết kế với các tiến trình hoạt động phong phú, đa dạng để thu hút học sinh. Trong Tiết đọc thư viện học sinh đều được đọc và nói, đây là thời gian thích hợp để sửa lỗi đọc, nói, viết đúng tiếng Việt cho học sinh. Bên cạnh việc rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt, Tiết đọc thư viện còn rèn cho học sinh thói quen đọc sách, việc này sẽ mang lại những lợi ích vô cùng to lớn vì sách chứa đựng rất nhiều kiến thức trong cuộc sống và học tập, giúp chúng ta tư duy, nhận thức sâu sắc hơn, trưởng thành hơn và tích lũy được vốn từ ngữ phong phú, hình thành văn hóa đọc. Tôi thấy rằng việc giúp học sinh dân tộc thiểu số phát âm đúng, chuẩn tiếng Việt là việc làm quan trọng, cần thiết, nó là nhân tố bổ trợ cho học sinh học tốt môn Tiếng Việt nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. Xuất phát từ lí do nêu trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 5 dân tộc thiểu số qua Tiết đọc thư viện”. II. Mục tiêu của nghiên cứu Qua tiết đọc thư viện, tạo môi trường giao tiếp tiếng Việt tích cực để học sinh được sử dụng tiếng Việt và có điều kiện sửa sai, rèn luyện tiến tới nói, đọc, viết đúng, chuẩn tiếng Việt. Nâng cao ý thức sử dụng tiếng Việt ngoài thời gian trên lớp của các em. Qua mỗi câu chuyện, học sinh biết điều chỉnh giọng phù hợp với ngữ cảnh, lời của người kể chuyện hay lời của nhân vật. Học sinh thể hiện được hành vi văn minh trong giao tiếp như chú ý lắng nghe người khác nói, biết giơ tay khi muốn nói và biết chờ đến lượt mình. Ngoài ra còn hình thành thói quen và khơi dậy niềm đam mê đọc sách, tìm tòi để trau dồi vốn tiếng Việt, rèn luyện kĩ năng đọc sách có hiệu quả, mỗi giờ đến tiết đọc thư viện là một niềm vui, đúng như câu khẩu hiệu : “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề 1. Các định nghĩa, khái niệm 1.1. Tăng cường Tiếng Việt là gì? Tăng cường Tiếng Việt là các biện pháp giúp học sinh học Tiếng Việt có hiệu quả. 1.2. Khái niệm về Thư viện - Theo ý nghĩa truyền thống, thư viện là kho sưu tập sách, báo và tạp chí. - Định nghĩa mới nhất của UNESCO: Thư viện không phụ thuộc vào tên gọi, là bất kì bộ sưu tập có tổ chức của sách, báo, tài liệu các loại, ấn phẩm định kì... Nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài liệu để tra cứu thông tin, giáo dục và giải trí. 1.3. Thư viện thân thiện là gì? Thư viện thân thiện là nơi học sinh được khuyến khích và hỗ trợ cho việc đọc một cách tích cực trong một môi trường thân thiện và an toàn. 1.4. Khái niệm Tiết đọc thư viện - Tiết đọc thư viện được đưa vào thời khóa biểu của trường, thời gian dành cho một tiết đọc thư viện tương đương với thời gian dành cho một tiết của các môn học khác. - Tiết đọc thư viện được giáo viên đã tham gia tập huấn thực hiện. - Tiết đọc thư viện nên tổ chức ở thư viện. Nếu trường có số lớp đông và không thể tổ chức toàn bộ tiết đọc trong thư viện thì Tiết đọc thư viện có thể diễn ra ở lớp học. - Trong tiết đọc thư viện có các hoạt động đọc chính giúp phát triển thói quen đọc sách của học sinh. Những hoạt động đọc không tập trung vào dạy kỹ năng đọc mà mục đích chính của tiết đọc thư viện là hình thành và phát triển thói quen đọc sách. 2. Các quan điểm khoa học Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc tiểu học. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic cho học sinh, việc học Tiếng Việt sẽ giúp các học sinh hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, các em sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm. Tiếng Việt vừa là môn học cơ bản, vừa là môn học công cụ để học sinh tiếp thu tri thức, kỹ năng của các bộ môn khác trong chương trình giáo dục và hướng đến việc hình thành kỹ năng sống cần thiết cho học sinh. Thư viện trường học là một bộ phận cơ sở trọng yếu, là trung tâm sinh hoạt văn hóa, khoa học của nhà trường. Thư viện trường học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, xây dựng thói quen tự học cho học sinh. Mặt khác, thư viện trường học còn tạo cơ sở từng bước thay đổi phương pháp dạy và học, xây dựng nếp sống văn hóa cho các thành viên trong nhà trường. Thư viện trường học giúp học sinh tự bổ sung kiến thức. Cũng chính ở thư viện trường học, các em tự rèn luyện tính độc lập, tư duy và thói quen tự học. Qua các tác phẩm mà các em đã đọc, sẽ hình thành cho các em tình cảm đúng đắn, giúp các em hiểu thêm về con người, về đất nước và cuộc sống. Theo Tạp chí Bộ Giáo dục và Đào tạo: Hiện nay tại các trường Tiểu học ở Việt Nam tồn tại 2 kiểu thư viện: Thứ nhất, thư viện không được đầu tư cả cơ sở vật chất và sách phục vụ học sinh. Mặc dù được gọi là thư viện, nhưng thực sự là nhà kho của trường. Thứ hai, thư viện được đầu tư tốt về cơ sở vật chất, nhưng vẫn thiếu sách phục vụ học sinh. Sách trong thư viện này phần lớn là sách phục vụ giáo viên. Sách phục vụ học sinh được khóa trong tủ và học sinh tìm sách qua danh mục sách. Điều này cản trở học sinh tiếp cận với sách và lựa chọn cho mình quyển sách phù hợp. Ngoài ra, một không gian thư viện phục vụ chung cả giáo viên và học sinh cũng khiến học sinh không cảm thấy thoải mái khi đến thư viện. Như vậy, có thể nói rằng mô hình thư viện hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đọc sách và xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh. Việc có một mô hình thư viện thân thiện để khuyến khích học sinh đến thư viện đọc sách, hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh là rất cần thiết. Thời gian qua, chương trình Thư viện thân thiện Trường Tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với tổ chức Room to Read đã được triển khai ở nhiều địa phương trong cả nước. Chương trình nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh tiểu học, hướng đến mục tiêu giúp các em trở thành người đọc độc lập trong tương lai, là người có kỹ năng đọc và thói quen đọc. Mô hình thư viện thân thiện trường Tiểu học được các Sở Giáo dục và Đào tạo đánh giá cao và chỉ đạo nhân rộng đến các trường ngoài chương trình. Việc phát triển thói quen đọc sách cho học sinh tiểu học với mục đích giúp học sinh trở thành người đọc độc lập sẽ góp phần thực hiện thành công việc nâng cao năng lực ngôn ngữ, khả năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học. Vào tháng 6 năm 2018, Room to Read đã phối hợp cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội thảo “Xây dựng văn hóa đọc và phát triển mô hình thư viện thân thiện trường Tiểu học”. Đây được xem là bước quan trọng để cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục đào tạo và Quyết định 329/QĐ-TTg ngày 15/03/2017 của Chính phủ về phát triển văn hóa đọc đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, cũng như biên bản ghi nhớ thực hiện Chương trình “Thư viện thân thiện trường Tiểu học” giai đoạn 2016 – 2020, ký giữa Bộ Giáo dục Đào tạo và tổ chức Room to Read. Theo công văn 1108/SGDĐT-GDTH, ngày 10 tháng 8 năm 2018 của Sở Giáo dục và Đào tạo Đăk Lăk về việc triển khai Chương trình “Thư viện thân thiện trường Tiểu học” năm học 2018 – 2019 và bắt đầu thực hiện từ ngày 10/9/2018. Tiết đọc thư viện được bố trí trong chương trình, kế hoạch dạy học của nhà trường. Tiết đọc thư viện được đưa vào thời khóa biểu của mỗi khối lớp, mỗi tuần có một tiết đọc thư viện. Đến với Tiết đọc thư viện, các em sẽ có 2 tiết để làm quen với nội quy thư viện, bảng mã màu, cách chọn sách, mượn trả và bảo quản sách. Các em sẽ được hướng dẫn sử dụng quy tắc 5 ngón tay để chọn sách: Em tự chọn một cuốn sách bất kỳ và đọc 5 câu liên tục. Nếu không mắc lỗi hoặc chỉ 1 lỗi thì em nên chọn 1 cuốn sách ở mã màu cao hơn; nếu em mắc 2 - 4 lỗi trong 5 câu đó thì quyển sách em chọn đã phù hợp với trình độ đọc của mình; còn nếu nhiều lỗi hơn, em cần chọn mã màu thấp hơn. Các tiết tiếp theo, các em sẽ được tiếp cận với các kiểu hoạt động: Đọc to nghe chung; Cùng đọc; Đọc cặp đôi; Đọc cá nhân. Tùy thuộc vào trình độ đọc của từng khối lớp mà giáo viên lựa chọn tỷ lệ các kiểu hoạt động phù hợp. Chẳng hạn, đối với khối lớp 1, 2 có thể lựa chọn các hoạt động học như sau: Đọc to nghe chung 40% số tiết; cùng đọc 30% số tiết; đọc cặp đôi 20% số tiết và đọc cá nhân 10% số tiết/năm học. Đối với khối 4, 5 thì lại có lựa chọn khác: Đọc to nghe chung 10% số tiết; Cùng đọc 20% số tiết; Đọc cặp đôi 30 % số tiết và đọc cá nhân chiếm 40% số tiết/năm học. Trong mỗi tiết, ngoài hoạt động đọc, các em được tham gia các trò chơi nhẹ nhàng; viết hoặc vẽ những gì mình thích trong câu chuyện; trao đổi cho nhau nghe về suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về nhân vật, về câu chuyện đó. Giáo viên có thể trao đổi với các em bằng một số câu hỏi giản đơn có liên quan đến nhân vật cũng như nội dung câu chuyện, nhằm hướng tới nhu cầu đọc sách tích cực cho học sinh. Tất nhiên, không biến các câu hỏi thành khai thác sâu nội dung câu chuyện. Như vậy, trong Tiết đọc thư viện nếu kết hợp được Tăng cường tiếng Việt vào thì sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho học sinh. II. Thực trạng vấn đề 1. Đặc điểm tình hình - Tổng số học sinh toàn trường là 282 em. Trong đó học sinh dân tộc Ê – đê là 204 em, nữ dân tộc là 108 em. Số dân tộc thiểu số chiếm 71% số học sinh toàn trường. - Khối lớp 5 có 3 lớp với tổng số học sinh 48 em, dân tộc Ê – đê là 39 em, nữ dân tộc là 26 em. - Lớp 5C tổng số học sinh là 17 em, dân tộc Ê – đê là 17 em, nữ dân tộc là 11 em. Ở giai đoạn này, hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập, hầu hết các em đã biết đọc, biết viết. Về tâm sinh lí, các em đang bước vào giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, các em đã biết ngại ngùng, rụt rè, xấu hổ, chưa mạnh dạn trong giao tiếp. Về phía gia đình, trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Bố mẹ không có nghề nghiệp ổn định, mải lo việc mưu sinh, một số cha mẹ phải đi làm xa, các em phải ở với ông bà, các em thiếu thốn tình cảm, sự quan tâm chăm sóc nhất là việc giáo dục kĩ năng sống cho các em. Một số bố mẹ không biết tiếng Việt, họ ngại sử dụng Tiếng Việt vì vốn kiến thức về Tiếng Việt ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ luôn tồn tại trong tâm thức họ. Các em lại sống trong môi trường thuần tiếng dân tộc, môi trường giao tiếp bằng Tiếng Việt hạn hẹp, nên vốn Tiếng Việt các em nhìn chung là hạn chế, không đồng đều, chưa đủ tự tin khi giao tiếp. Năng lực, trình độ đội ngũ giáo viên trong trường chưa đồng đều, số giáo viên người dân tộc thiểu số chiếm 27%, kinh nghiệm giảng dạy, tăng cường Tiếng Việt còn hạn chế, chưa phát huy hết kĩ năng Sư phạm, chưa biết tổ chức hướng dẫn các hoạt động học tập có hiệu quả để phát huy tính tích cực của học sinh. Tỉ lệ học sinh nói thông viết thạo tiếng Việt thấp nên việc tiếp thu kiến thức các môn học còn chậm dẫn đến chất lượng giáo dục hàng năm chưa cao. Đa số học sinh có kết quả học tập chưa cao là học sinh đi học chưa chuyên cần, cần có động cơ học tập và rèn luyện đúng đắn. Các em thiếu điều kiện học tập như: dụng cụ học tập, không có góc học tập ở nhà. Các em chưa có phương pháp tự học và chưa biết dành thời gian cho việc học ở nhà. Các em vẫn còn ham chơi, thích đi theo bố mẹ ra rẫy đi làm, đi bốc gạch, chơi game, xem những thứ vô bổ trên điện thoại, đã trực tiếp tác động làm ảnh hưởng không ít đến việc học tập của các em. Bởi vậy đối với học sinh dân tộc thiểu số tập trung Tăng cường tiếng Việt là cần thiết và hợp lí, đóng vai trò trọng tâm, then chốt cho chất lượng giáo dục vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. 2. Thực trạng tăng cường Tiếng Việt tại trường Tiểu học Ea Bông 2.1. Các giải pháp đã tiến hành để tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tại trường Tiểu học Ea Bông ở những năm trước Trường Tiểu học Ea Bông đã tổ chức dạy học Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh bằng các bài tập bổ trợ Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 1, 2, 3 và Tăng cường Tiếng Việt lồng ghép, tích hợp ở lớp 4, 5. Thực hiện theo Quyết định 920/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk, ngày 14/4/2017 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án “Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ Mầm non, học sinh Tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng 2025” trên địa bàn Đăk Lăk, nhà trường đã tổ chức các buổi chuyên đề Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số. Giáo viên đã vận dụng soạn – giảng Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh bằng nhiều phương pháp, cách thức tổ chức linh hoạt, khéo léo, phù hợp để lồng ghép, tích hợp ở tất cả bài học của các môn học, tăng cường mọi lúc, mọi nơi để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và bồi dưỡng kiến thức tiếng Việt, hình thành thói quen sử dụng tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. Để tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, hầu hết các giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn đã áp dụng một số biện pháp sau: - Chú trọng sửa lỗi phát âm sai về tiếng, từ, câu, dấu thanh. - Tăng cường cho các em luyện đọc trên lớp. - Nhắc nhở các em về nhà thường xuyên đọc lại bài. - Tổ chức hoạt động nhóm để các em tham gia, trao đổi. - Áp dụng Thông tư 22/2016 khuyến khích học sinh nhận xét bạn, để học sinh có cơ hội được nói nhiều hơn. - Tại lớp học tôi đang trực tiếp giảng dạy, phần tăng cường Tiếng Việt được lồng ghép vào tất cả các môn học ở các nội dung phù hợp với các mức độ khác nhau. Đặc biệt từ khi Tiết đọc thư viện được đưa vào thực hiện trong trường tăng cường tiếng Việt được tôi thực hiện thường xuyên ở tiết học này. 2.2. Những tồn tại – hạn chế trong việc sử dụng tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số tại trường và tại lớp 5C - Vẫn còn một số học sinh đọc, nói chưa đúng tiếng Việt. Phần lớn do các em chưa chú tâm rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt của mình. Các em chưa hiểu vai trò và tầm quan trọng của tiếng Việt trong học tập, giao tiếp hiện tại và tương lai sau này. Ví dụ: Y Tô Ni (sinh năm 2007), đọc sai nhiều về tiếng từ và cả dấu thanh. Em ngại khi đọc bài, còn đọc rất nhỏ, em hay xấu hổ không dám đọc trước lớp vì bị các bạn chế diễu, cười cợt với kiểu đọc sai đó. Vì đọc yếu các em không hiểu được yêu cầu và nội dung bài, không thể tham gia thảo luận xây dựng bài cùng các bạn được. Tất cả điều đó làm các em chán nản khi đến lớp, dần dần không thích đến lớp. Nghỉ học nhiều, các em sẽ không có cơ hội, thời gian để giáo viên rèn luyện, sửa lỗi. Các em tự đánh mất đi quyền lợi của mình. - Sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục tập quán: phần lớn các em chỉ chơi với bạn bè cùng là dân tộc mình, địa bàn các em sinh sống không có người Kinh, chỉ có vài người đi buôn bán dạo hằng ngày; Tại phân hiệu 1 (Buôn Knul) của trường Tiểu học Ea Bông từ lớp 1 đến lớp 5 đều là học sinh dân tộc Ê – đê; nên giờ ra chơi cũng như lúc ở nhà các em vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp với nhau nên ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu kiến thức bằng tiếng Việt. - Việc phát âm sai còn phụ thuộc rất nhiều vào tâm lí của học sinh. Các em ngại tham gia các hoạt động tập thể do trường, lớp tổ chức. Một số em luôn mặc cảm, tự ti, ngại giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ bị thầy cô giáo gọi phát biểu, sợ câu trả lời của mình bị sai, Ở lớp 5C, đa số các em đều học đúng độ tuổi (2008), còn 3 học sinh có độ tuổi lớn hơn, do các em tiếp thu bài chậm nên bị lưu ban. Em H Dưng Hđơk (sinh năm 2006), trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp trước, em là học sinh được quan tâm đặc biệt, vì ở lớp dưới em đã thường xuyên nghỉ học, hay mặc cảm, tự ti khi phải học chung với học sinh lớp dưới. Cơ thể các em phát triển trội hẳn so với học sinh khác trong lớp nên tâm sinh lí cũng khác hơn, em đã biết ngại, xấu hổ, có những suy nghĩ phức tạp hơn và không hòa đồng với học sinh khác. Những lỗi cơ bản mà học sinh của lớp tôi thường mắc phải khi đọc: + Phát âm sai hoặc thiếu dấu thanh: Ví dụ: Chậm chạp Châm cháp Vạn vật Van vất Thích nghi Thích nghì + Ngắt nghỉ bất kì lúc nào giữa câu hoặc không ngắt nghỉ sau mỗi dấu câu: do các em hụt hơi hoặc từ tiếp theo là từ khó đọc các em phải dừng lại để đánh vần nhẫm trong đầu rồi mới phát âm ra thành tiếng. Ví dụ: Thỏ nghĩ bụng chắc c
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_tang_cuong_tieng_viet_cho_hoc_sinh_lop.doc