Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 9

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 9

Thực tế cho thấy năng lực cảm thụ văn chương, đưa văn chương vào cuộc sống và đặc biệt là cách hành văn (nhất là văn nghị luận) của đại đa số các em còn rất yếu. Mặc dù đã học đến lớp 9 vậy mà có không ít học sinh vẫn còn viết những đoạn văn, bài văn không đâu vào đâu, hết sức ngây ngô, thậm chí ngay đến bài kiểm tra một số em cũng chỉ vẽ vời luơ quơ, viết đối phó để tránh bị điểm 0. Dường như các em bất lực trước ngòi bút của mình. Hầu hết các em chỉ có thể làm văn bằng cách sao chép bài mẫu hoặc ghi tất cả những lời giảng của giáo viên chứ không thể viết ra “những điều mình nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, chính xác, để làm nổi bật điều muốn nói”. Chính điều đó làm cho các em lo sợ, ngại ngùng và ít hào hứng khi học bộ môn Ngữ văn nhất là phân môn tập làm văn.

Môn ngữ văn trong nhà trường THCS gồm có ba phân môn chính là: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Trong thực tế, phân môn Tập làm văn luôn được coi là phân môn khó nhất không chỉ đối với giáo viên mà đối với cả học sinh.

Đứng trước tình trạng đó, tôi và nhiều đồng nghiệp khác đã không khỏi băn khoăn. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, tìm biện pháp để giúp các em có kĩ năng làm văn nhất là văn nghị luận.

doc 26 trang Mai Loan 28/07/2025 220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
STT NỘI DUNG TRANG
 1 Mục lục 1
 2 Các chữ viết tắt 3
 3 1.Lời giới thiệu 4
 4 2. Tên sáng kiến kinh nghiệm 4
 5 3. Tên tác giả 4
 6 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến 4
 7 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 4
 8 6. Ngày sáng kiến được áp dụng 4
 9 7. Mô tả bán chất 4
 10 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 4
 11 7.1. Lí do chọn đề tài. 4
 12 7.1.1. Cơ sở lí luận 4
 13 7.1.2. Cơ sở thực tiễn 5
 14 7.2. Mục đích nghiên cứu 5
 15 7.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 5
 16 7.4. Bản chất của chuyên đề: 6
 17 7.5. Phương pháp nghiên cứu: 6
 18 7.6.Giới hạn chuyên đề: 6
 19 7.7. Phạm vi nghiên cứu 6
 20 PHẦN II. NỘI DUNG 6
 21 7.1. Một số hiểu biết chung 6
 22 7.1.1. Nghị luận và văn nghị luận: 6
 23 7.1.2. Đặc điểm 6
 24 7.2. Thực tế giảng dạy và học tập phân 7
 môn tập làm văn nói chung và kiểu 
 loại văn nghị luận nói riêng.
 25 7.2.1. Đối với giáo viên: 7
 26 7.2.2. Đối với học sinh: 7
 27 7.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết 8
 1 CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
 - Trung học cơ sở: THCS
- Sách giáo khoa: SGK
- Giáo viên: GV
- Nhà xuất bản: NXB
- Học sinh giỏi: HSG
 3 Trong trường phổ thông, môn Ngữ văn cũng đã được các cấp ngành hết sức chú 
ý, nó chiếm một số lượng tiết rất đáng kể so với các môn học khác. Đó là môn 
học thuộc nhóm khoa học xã hội có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan 
điểm, tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh. Nó không những tạo tiền đề 
cho học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo mà còn 
rèn cho các em các kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có 
năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Văn học đồng thời cũng là một môn 
công cụ có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ môn khác. Học tốt môn văn sẽ giúp 
các em tiếp nhận các môn khoa học khác một cách tốt hơn.
7.1.2 Cơ sở thực tiễn:
 Thực tế cho thấy năng lực cảm thụ văn chương, đưa văn chương vào cuộc 
sống và đặc biệt là cách hành văn (nhất là văn nghị luận) của đại đa số các em 
còn rất yếu. Mặc dù đã học đến lớp 9 vậy mà có không ít học sinh vẫn còn viết 
những đoạn văn, bài văn không đâu vào đâu, hết sức ngây ngô, thậm chí ngay 
đến bài kiểm tra một số em cũng chỉ vẽ vời luơ quơ, viết đối phó để tránh bị 
điểm 0. Dường như các em bất lực trước ngòi bút của mình. Hầu hết các em chỉ 
có thể làm văn bằng cách sao chép bài mẫu hoặc ghi tất cả những lời giảng của 
giáo viên chứ không thể viết ra “những điều mình nghĩ, mình cần bày tỏ một 
cách trung thành, chính xác, để làm nổi bật điều muốn nói”. Chính điều đó làm 
cho các em lo sợ, ngại ngùng và ít hào hứng khi học bộ môn Ngữ văn nhất là 
phân môn tập làm văn.
 Môn ngữ văn trong nhà trường THCS gồm có ba phân môn chính là: Văn 
học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Trong thực tế, phân môn Tập làm văn luôn 
được coi là phân môn khó nhất không chỉ đối với giáo viên mà đối với cả học 
sinh. 
 Đứng trước tình trạng đó, tôi và nhiều đồng nghiệp khác đã không khỏi 
băn khoăn. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, tìm biện 
pháp để giúp các em có kĩ năng làm văn nhất là văn nghị luận. Chính vì vậy, tôi 
đã chọn: “Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh lớp 9” làm đề tài.
7. 2. Mục đích nghiên cứu
 Thực hiện đề tài này tôi không có tham vọng gì hơn ngoài mục đích cung 
cấp cho học sinh lớp 9 nói riêng và học sinh THCS nói chung những kĩ năng khi 
làm văn nghị luận để các em cải thiện được kĩ năng viết văn nghị luận của mình 
nói riêng và để học tốt bộ môn Ngữ văn nói chung.
7.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
 Do thời gian và điều kiện của bản thân trong phạm vi giải pháp tôi chỉ tập 
trung đề cập đến
 - Một số dạng bài văn nghị luận trong chương trình ngữ văn lớp 9.
 - Cụ thể: dạng bài nghị luận xa hội:
 + Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống
 5 - Văn nghi luận không làm nhiệm vụ mô tả đời sống xã hội hay nội tâm 
con người như văn sáng tác mà nhằm nhận biết và phân tích đời sống bằng tư 
duy logic nên nó phải tuân thủ chặt chẽ tư duy logic.
 - Những quy tắc này biểu hiện ở hình thức cả bài, bao giờ cũng phải có: 
Nêu vấn đề (mở bài), giải quyết vấn đề (thân bài), kết thúc vấn đề (kết bài), 
biểu hiện ở kết cấu từng đoạn văn, có mở đoạn, triển khai đoạn, sơ kết đoạn, 
biểu hiện ở mục đích bài viết: làm cho người đọc hiểu đến tin rồi tiến đến xây 
dựng một thái độ đúng và hướng dẫn những hành động khác.
 Phân loại văn nghị luận:
 Nhìn từ nội dung đề tài ta có thể chia văn nghị luận thành hai loại lớn:
 - Nghị luận văn học:
 Là những bài văn bàn về các vấn đề văn chương- nghệ thuật, phân tích, 
bình luận về vẻ đẹp của tác phẩm văn học, trao đổi về một vấn đề lí luận văn học 
hoặc làm sáng tỏ một nhận định văn học.
 - Nghị luận xã hội:
 Theo từ điển Hán Việt, " nghị luận" là dùng lí luận để phân tích ý nghĩa phải 
trái, bàn bạc mở rộng vấn đề. Còn " xã hội " là những gì thuộc về quan hệ giữa 
người và người về các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngôn 
ngữ... Từ đó có thể hiểu nghị luận xã hội là những bài văn bàn về các vấn đề xã 
hội - nhân sinh, một tư tưởng đạo lí, một lối sống cao đẹp, một hình tượng tích 
cực hoặc tiêu cực đến con người và những mối quan hệ giữa con người với con 
người trong xã hội.
 Nói chung cả hai loại đều nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, 
quan điểm của người viết một cách trực tiếp về văn học hoặc về chính trị, đạo 
đức, lối sống... bằng một ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận chặt 
chẽ, giàu sức thuyết phục.
7.2. Thực tế giảng dạy và học tập phân môn tập làm văn nói 
chung và kiểu loại văn nghị luận nói riêng.
7.2.1. Đối với giáo viên:
 Như đã nói, Tập làm văn là phân môn khó dạy nhất trong số các phân 
môn của bộ môn Ngữ văn. Mặt khác, số tiết quy định cho việc dạy lí thuyết và 
thực hành lại hết sức khiêm tốn, vì vậy giáo viên ít có thời gian để uốn nắn, 
điều chỉnh những lệch lạc sai sót trong cách viết của học sinh. Đa số giáo viên 
tận tụy với nghề, luôn chăm lo quan tâm đến học sinh, mặc dù vậy vẫn còn một 
số hạn chế như: do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy, áp dụng 
công nghệ thông tin vào trong bài dạy còn hạn chế; một số giáo viên còn thực sự 
chưa tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch cảm xúc, chưa khơi gợi 
được hứng thú của học sinh trong tiết học
7.2.2. Đối với học sinh:
 7 Trong SGK Ngữ văn 9 tập 2, để dạy học sinh cách làm bài nghị luận có 
các bài cụ thể sau: 
 - Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
 - Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
 - Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
 - Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ 
 Mặc dù đã có những hướng dẫn cụ thể nhưng các bài này còn mang tính 
khái quát, mô hình tổng thể, chưa đề cập nhiều đến việc nhận diện đề, xây dựng 
lập luận, ngôn ngữ trong văn nghị luận, mặc dù những điều này các em đã học ở 
các lớp dưới, cho nên học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong viết bài.
 Trong một số năm học gần đây bản thân tôi được phân công giảng dạy 
môn Ngữ văn khối 9. Khi dạy văn nghị luận, tôi đã cố gắng truyền đạt tất cả 
những kiến thức cơ bản để hướng dẫn học sinh viết một bài văn nghị luận như 
SGK Ngữ văn 9 tập 2, song tôi nhận thấy hiệu quả viết văn nghị luận các em 
chưa cao, phần lớn lỗi các em còn mắc phải trong bài làm là ở khâu nhận diện 
đề, xây dựng lập luận, ngôn ngữ cho bài văn. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, 
tôi đã cố gắng lồng ghép, cung cấp tốt cho các em những điều này để giúp các 
em rèn luyện kĩ năng viết văn của mình một cách tốt hơn. 
7.3.1. Nhận diện đề.
 Trước khi làm bất cứ một bài văn nghị luận nào, điều đầu tiên hết sức 
quan trọng đối với người viết là việc nhận diện đề. Bởi mỗi đề văn nghị luận 
thường có những đặc điểm riêng về mặt nội dung và hình thức, không đề nào 
hoàn toàn giống đề nào. Vì vậy trong quá trình làm bài văn nghị luận, việc tìm 
hiểu đề để nắm vững yêu cầu của đề về cả hai phương diện: cách thức nghị luận 
và nội dung nghị luận là công việc quan trọng có ý nghĩa quyết định trước tiên 
đối với sự thành bại của mỗi bài văn. Tìm hiểu kĩ đề tránh được tình trạng lạc 
đề, xa đề, thừa ý, thiếu ý trong bài làm. 
 Vì thế nhận diện đề là khâu hết sức quan trọng trong quy trình làm văn. 
Nếu nhận diện sai, bài làm sẽ sai. Đối với học sinh những lỗi sai về nhận diện 
đề thường là:
 - Lạc đề: Là xác định sai nội dung, phương pháp, giới hạn
 - Lệch đề: Là chưa xác định được đâu là nội dung chính, lẽ ra nội dung 
chính cần phải làm nhiều thì lại nói qua loa, đại khái, phần phụ trở thành phần 
chính, thao tác chính lại trở thành thao tác phụ, cuối cùng viết không đúng trọng 
tâm
 - Lậu đề: Là còn viết thiếu ý, bỏ sót ý hoặc thiếu một yêu cầu nào đó của 
đề.
 Khi hướng dẫn học sinh cách làm các bài văn nghị luận cụ thể, giáo viên 
cần dạy tốt phần tìm hiểu đề. Giúp các em hiểu tìm hiểu đề là tìm hiểu về nội 
dung, thể loại, giới hạn của đề,  Nói một cách khác giáo viên cần giúp cho học 
 9 7.3.2.1.1.Sử dụng dẫn chứng từ thực tế.
 Dẫn chứng từ thực tế có thể là người thật, việc thật, diễn ra trong cuộc 
sống hiện tại, trong lịch sử, cũng có thể là những câu thơ, các sự kiện rút ra từ 
tác phẩm văn học. Những dẫn chứng từ thực tế có tác động trực tiếp vào giác 
quan người đọc, cách dẫn chứng này đơn giản, không cần tra cứu nhiều, điều 
này rất thích hợp với khả năng nghị luận của đại bộ phận học sinh lớp 9 nhất là 
đối tượng học sinh từ yếu đến khá. Tuy nhiên để luận cứ có tính thuyết phục 
cao, tôi thường lưu ý với các em khi lấy dẫn chứng từ thực tế thì cần phải chọn 
những dẫn chứng tiêu biểu, đúng bản chất của đối tượng, phù hợp với kết luận 
cần hướng tới. Những dẫn chứng này phải được nhiều người biết và phải có ý 
nghĩa. Đặc biệt trong bài văn nghị luận xã hội, dẫn chứng từ thực tế thường 
được sử dụng nhiều và đóng vai trò hết sức quan trọng.
 Chẳng hạn: Với đề bài “Đất nước ta có nhiều tấm gương học sinh nghèo 
vượt khó, học giỏi. Em hãy trình bày một số tấm gương đó và nêu suy nghĩ của 
mình”.
 Tôi đã gợi ý để học sinh lấy một số dẫn chứng từ tế, lịch sử như sau:
Mạc Đĩnh Chi con nhà nghèo, ban ngày còn phải làm kiếm sống, chỉ tối đến mới 
có thời gian học tập. Nhưng không có tiền mua dầu thắp đèn, cậu bé họ Mạc 
phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng rồi soi lên trang sách mà đọc chữ. Với ngọn 
đèn đom đóm ấy, cậu bé miệt mài học tập và đến khoa thi năm 1304 cậu thi đỗ 
Trạng nguyên rồi trở thành một vị quan có tài năng lớn trong triều Trần.
 Hoặc: Nguyễn Hiền nhà nghèo, phải xin đi làm chú tiểu trong chùa nhưng 
rất thông minh và ham họ. Được thầy dạy cho học chữ, Nguyễn Hiền tiến bộ rất 
nhanh. Không có giấy, cậu lấy lá viết chữ, rồi lấy que xâu thành từng xâu ghim 
xuống đất. Mỗi xâu là một bài. Thế mà, Nguyễn Hiền đã đậu Trạng nguyên khi 
mới 12 tuổi. 
 Hay với đề: Suy nghĩ về đạo lí “ Uống nước nhớ nguồn”
 Tôi cũng đã gợi ý để học sinh lấy dẫn chứng từ thực tế, văn học như sau:
 Triết lí sống “Uống nước nhớ nguồn” đã hóa thân thành những tập tục đẹp 
đẽ của người Việt Nam. Biết ơn các vua Hùng dựng nước, 
dân ta có ngày giỗ tổ Hùng Vương. Biết ơn các thương binh, liệt sĩ đã 
đổ xương máu để giữ hòa bình, chúng ta có ngày 27 – 7. Triết lí sống “Uống 
nước nhớ nguồn” đã trở thành bản lĩnh sống, là một nét nhân cách đẹp đẽ. 
Nguyễn Trãi ăn lộc vua nhưng lại tâm niệm đền ơn kẻ cấy cày. Trần Đăng Khoa 
biết từ những khó nhọc của cha mẹ để thấy rõ hơn trách nhiệm của mình:
 Áo mẹ mưa bạc màu
 Đầu mẹ nắng cháy tóc
 Mẹ ngày đêm khó nhọc
 Con chưa ngoan chưa ngoan.
 ( Khi mẹ vắng nhà.)
 11

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_van_nghi_luan_cho_hoc.doc