Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy năng lực nói của học sinh qua tiết “Luyện nói” trong môn Ngữ văn 6, 7 tại trường Trung học Cơ sở Lê Đình Chinh
Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết, giao tiếp là một hoạt động vô cùng quan trọng đời sống của mỗi người. Dù trong cuộc sống hay trong công việc giao tiếp đều là cầu nối giữa con người với con người giúp chúng ta hiểu nhau hơn.Vì thế giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người và xã hội. Chúng ta hãy thử hình dung xem xã hội sẽ như thế nào nếu mọi người tồn tại trong đó không có mối quan hệ với nhau, mỗi cá nhân chỉ biết mình mà không biết, không quan tâm, không có mối liên hệ gì với những người xung quanh? Đó không phải là một xã hội mà chỉ là một tập hợp rời rạc những cá nhân đơn lẻ. Mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với con người trong xã hội còn là điều kiện để xã hội phát triển. Bởi vậy, dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học. Đặc biệt là năng lực nói đã giúp con người hình thành và phát triển rất nhiều phẩm chất. Vì thế, từ xưa ông cha ta đã rất coi trọng việc giáo dục lời nói: “Học ăn, học nói, học gói, học mở.”
Nói là hình thức giao tiếp tự nhiên của con người. Nhìn vào những cuộc trò chuyện giữa các em học sinh với nhau trong giờ ra chơi hay trong những cuộc gặp nhau sau kì nghỉ hè, ta thấy chúng tự nhiên và sinh động biết bao! Thế nhưng trong tiết “Luyện nói” nhiều học sinh thường ngày vốn biết ăn nói sinh động bỗng trở nên lúng túng, ngượng nghịu. Dường như tính tự tin, mạnh dạn thường ngày của các em đã biến mất, giờ học thật căng thẳng, nặng nề. Bởi vì, lúc này, học sinh được nói trong một môi trường giao tiếp khác- môi trường xã hội, tập thể công chúng. Hơn nữa, luyện nói trong nhà trường là nói theo những chủ đề, những vấn đề không quen thuộc trong đời sống hàng ngày, lại yêu cầu nói có mạch lạc, liên kết, không được tuỳ tiện, do đó cần phải luyện nói trong môi trường xã hội. Rèn năng lực nói cho học sinh cũng là rèn luyện về nhân cách. Chính vì thế, tiết " Luyện nói" là một tiết học thật quan trọng và có ý nghĩa đối với học sinh THCS, nhất là học sinh lớp 6, lớp 7.
Qua tiết “Luyện nói” giáo viên luyện cho học sinh biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa, giáo viên còn rèn luyện cho học sinh các mặt cụ thể như ngữ điệu, tư thế, nét mặt, âm lượng, có sự giao cảm trực tiếp giữa người nói và người nghe ví dụ: Lời nói (phải rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói (phải vừa nghe vừa cố gắng truyền cảm) và tư thế nói (phải mạnh dạn, tự tin giúp cho lời nói có sức thuyết phục hơn). Nói năng tốt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các em không chỉ trong thời gian học tập ở trường mà còn trong cả cuộc đời.
I. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Từ xưa đến nay, kỹ năng nói là một trong những kỹ năng vô cùng quan trọng trong giao tiếp hàng ngày cũng như khi thực thi công việc. Ngôn ngữ - tiếng nói đã góp phần quan trọng trong việc trao đổi thông tin, biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng trong biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Vì thế, việc rèn kĩ năng nói từ xưa đã được ông cha ta chú trọng: “Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục kĩ năng nói lại được chú trọng nhiều hơn. Đòi hỏi người giáo viên hướng dẫn, giảng dạy sao cho học sinh của mình có được kỹ năng giao tiếp thật tốt. Kĩ năng này chủ yếu được rèn thông qua môn Ngữ văn. Hiện nay môn Ngữ văn đã thực hiện theo phương pháp dạy học theo hướng tích cực làm cho giờ học sôi nổi hơn, giáo viên và học sinh thoải mái hơn so với trước đây. Đặc biệt là trong phân môn Tập làm văn rất coi trọng cả bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. Qua bốn kỹ năng này hình thành năng lực cảm thụ, năng lực bộc lộ, biểu đạt tư tưởng, tình cảm bằng ngôn ngữ nói, viết tiếng Việt cho học sinh. Mặc dù vậy, hầu như kĩ năng nói, thuyết trình của học sinh còn rất hạn chế. Vì thế cứ đến tiết “Luyện nói” đa số học sinh cảm thấy rất lo lắng, băn khoăn, rụt rè, chỉ sợ mình bị thầy cô giáo gọi lên trình bày trước lớp, thậm chí có học sinh không muốn học tiết đó. Một trong những nguyên nhân là do phương pháp dạy của giáo viên chưa hợp lý, các hình thức tổ chức hoạt động học tập trên lớp trong giờ luyện nói chưa thu hút được sự đam mê của học sinh. Mặt khác, trong quá trình dạy giáo viên hầu như không lựa chọn nội dung luyện nói để thao giảng hoặc làm chuyên đề vì học sinh không chủ động, không tích cực thì giờ dạy khó có thể đem lại hiệu quả. Trước thực tế ấy, tôi luôn băn khoăn, tìm tòi các biện pháp giáo dục học sinh để các em yêu thích tiết “Luyện nói” hơn, từ đó các em sẽ học tập tốt hơn, đặc biệt là tự tin, mạnh dạn trong khi giao tiếp cũng như trong giờ “Luyện nói”. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ Một vài kinh nghiệm phát huy năng lực nói của học sinh qua tiết “Luyện nói” trong môn Ngữ văn 6, 7 tại trường THCS Lê Đình Chinh” để chia sẻ cùng đồng nghiệp. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a) Mục tiêu - Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của những tiết luyện nói đối với học sinh lớp 6, 7. Nâng cao bốn kĩ năng cơ bản: nghe – nói - đọc - viết, đặc biệt là kĩ năng nói. - Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong tiết luyện nói, nói có kết hợp với ánh mắt cử chỉ, thái độ, tình cảm. - Phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong khi luyện nói cũng như khi giao tiếp. - Tạo hứng thú cho các em trong tiết học cũng như sự yêu thích bộ môn Ngữ văn. - Tạo không khí chan hòa, thoải mái vui tươi, cởi mở giữa thầy và trò, giữa trò với nhau. - Phát hiện được điểm yếu của học sinh, từ đó giúp học sinh nhận ra khắc phục được những điểm yếu để viết tốt bài tập làm văn, .... Qua đó có thể rèn luyện cho học sinh khả năng thể hiện, khả năng giao tiếp của mình trong nhà trường và ngoài xã hội; giúp các em tự tin, bản lĩnh trong khi giao tiếp; đồng thời góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn nói riêng cũng như chất lượng chung của toàn trường. b) Nhiệm vụ của đề tài - Nhìn nhận thực trạng dạy - học tiết “Luyện nói” để từ đó thấy rõ những nhược điểm cần khắc phục. - Trao đổi với đồng nghiệp về mục tiêu, nguyên tắc, nội dung, trang thiết bị – cơ sở vật chất, khi thực hiện tiết “Luyện nói” theo hướng đổi mới. - Giới thiệu tiết “Luyện nói” đã thực hiện theo hướng đổi mới nhằm trao đổi kinh nghiệm và làm cơ sở đánh giá tính khả thi của đề tài. - Sơ bộ đánh giá bước đầu những ưu, nhược điểm của đề tài qua phiếu thăm dò ý kiến của học sinh. 3. Đối tượng nghiên cứu - Giải pháp nâng cao chất lượng tiết “Luyện nói”, phát huy năng lực nói của học sinh trong môn Ngữ văn 6, 7. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Đề tài này được thực hiện trong phạm vi tìm hiểu các tiết "Luyện nói" của sách giáo khoa Ngữ Văn 6, 7 và áp dụng cho các em học sinh lớp 6A2, 7A2 của trường THCS Lê Đình Chinh trong năm học 2016 - 2017 và năm học 2017 - 2018. 5. Phương pháp nghiên cứu a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận - Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu về rèn kĩ năng nói trong môn Ngữ văn. b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra: Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa mạnh dạn nói trước tập thể. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Qua thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở các khối lớp đặc biệt là lớp 6ª2, 7ª2, từ tình hình học tập của học sinh qua tiết “Luyện nói”. - Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm. c) Phương pháp thống kê toán học Thống kê kết quả học tập của học sinh qua kiểm tra đánh giá. II. Phần nội dung 1. Cơ sở lý luận Như chúng ta đã biết, giao tiếp là một hoạt động vô cùng quan trọng đời sống của mỗi người. Dù trong cuộc sống hay trong công việc giao tiếp đều là cầu nối giữa con người với con người giúp chúng ta hiểu nhau hơn.Vì thế giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người và xã hội. Chúng ta hãy thử hình dung xem xã hội sẽ như thế nào nếu mọi người tồn tại trong đó không có mối quan hệ với nhau, mỗi cá nhân chỉ biết mình mà không biết, không quan tâm, không có mối liên hệ gì với những người xung quanh? Đó không phải là một xã hội mà chỉ là một tập hợp rời rạc những cá nhân đơn lẻ. Mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với con người trong xã hội còn là điều kiện để xã hội phát triển. Bởi vậy, dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học. Đặc biệt là năng lực nói đã giúp con người hình thành và phát triển rất nhiều phẩm chất. Vì thế, từ xưa ông cha ta đã rất coi trọng việc giáo dục lời nói: “Học ăn, học nói, học gói, học mở.” Nói là hình thức giao tiếp tự nhiên của con người. Nhìn vào những cuộc trò chuyện giữa các em học sinh với nhau trong giờ ra chơi hay trong những cuộc gặp nhau sau kì nghỉ hè, ta thấy chúng tự nhiên và sinh động biết bao! Thế nhưng trong tiết “Luyện nói” nhiều học sinh thường ngày vốn biết ăn nói sinh động bỗng trở nên lúng túng, ngượng nghịu. Dường như tính tự tin, mạnh dạn thường ngày của các em đã biến mất, giờ học thật căng thẳng, nặng nề. Bởi vì, lúc này, học sinh được nói trong một môi trường giao tiếp khác- môi trường xã hội, tập thể công chúng. Hơn nữa, luyện nói trong nhà trường là nói theo những chủ đề, những vấn đề không quen thuộc trong đời sống hàng ngày, lại yêu cầu nói có mạch lạc, liên kết, không được tuỳ tiện, do đó cần phải luyện nói trong môi trường xã hội. Rèn năng lực nói cho học sinh cũng là rèn luyện về nhân cách. Chính vì thế, tiết " Luyện nói" là một tiết học thật quan trọng và có ý nghĩa đối với học sinh THCS, nhất là học sinh lớp 6, lớp 7. Qua tiết “Luyện nói” giáo viên luyện cho học sinh biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa, giáo viên còn rèn luyện cho học sinh các mặt cụ thể như ngữ điệu, tư thế, nét mặt, âm lượng, có sự giao cảm trực tiếp giữa người nói và người ngheví dụ: Lời nói (phải rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói (phải vừa nghe vừa cố gắng truyền cảm) và tư thế nói (phải mạnh dạn, tự tin giúp cho lời nói có sức thuyết phục hơn). Nói năng tốt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các em không chỉ trong thời gian học tập ở trường mà còn trong cả cuộc đời. 2. Thực trạng a) Nguyên nhân khách quan Trong thực tế giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS hiện nay, không khí trong giờ học Tập làm văn vốn đã khô cứng, khó tạo hứng thú thì với giờ “Luyện nói” càng khô khan khó dạy hơn nên hầu như giáo viên khó đạt được thành công với những tiết dạy này. Có lẽ vì thế mà tâm lí ở thầy là ngại dạy và trò là ngại học. Mặt khác, phần lớn các bài luyện nói đều rất dài, dung lượng kiến thức nhiều. Mà thời gian luyện nói chỉ có 45 phút không tạo được điều kiện cho tất cả học sinh được nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ tập trung vào những em khá, giỏi, chăm còn những học sinh lười sẽ thụ động, không phát huy được. Hơn nữa học sinh ngoài giờ học, các em quen nói tự do còn trong giờ tập nói, các em phải trả lời, phải suy nghĩ, phải giữ gìn lời nói của mình dưới sự giám sát của giáo viên. Đề tài, vấn đề đặt ra trong giờ là do thầy đặt ra chứ không phải những vấn thường ngày của cuộc sống nên có những học sinh ngoài đời vốn ăn nói rất hoạt bát nhưng đứng trước tập thể, trong các tiết “Luyện nói” vẫn còn lúng túng. Hơn nữa, trường THCS Lê Đình Chinh là một xã ở vùng sâu, vùng xa, các em đều xuất thân và sinh sống ở vùng nông thôn, ít có dịp đi đây, đi đó để mở rộng tầm nhìn nên thường có tâm lí e dè, ngại nói hoặc không tự tin khi nói trước đông người. Mặt khác các em học sinh ở đây chủ yếu người gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi do ảnh hưởng của từ ngữ địa phương nhiều nên phát âm chưa tốt, nói sai nhiều. Chẳng hạn, như: + Âm giữa thấp /a/ lên hàng giữa bậc trung /ươ/ và nguyên âm sau tròn môi /o/ về âm giữa thấp /a/ ví dụ: ai đó - > ưa đáu, nòng nọc - > nàng nạc, /a/ - > /oa/, /ao/, /o/ - > /ô/ (chị Hai - > chị He, ba - > boa, cái bao - > cái bô, nói láo - > nói lố, ăn cháo - > ăn chố, Thánh Gióng - > Thánh Giống, ...), những chữ có vần /oai/ - > uôi (củ khoai - > củ khuôi). + Nguyên âm /i/ chuyển thành /ư/ ngắn ví dụ: xinh xắn - > xưn xắng. + Nguyên âm /au/ lại mất chúm môi ví dụ: hoàn toàn - > hàng tàng. + Nguyên âm kép /iê/ - > /i/, /ươ/ - > /ươ/ ví dụ: kiếm - > kím, kì diệu - > kì dịu. + Hệ thống phụ âm cuối gần như không có / - n/, / - t/ mà chuyển sang /c/ và /ng/ - > n”, “c - > t” ví dụ: san sát - > sang sác; bùn đất - > bùng đấc. + Ngoài ra các em còn phát âm lẫn lội giữa dấu ngã (~) và dấu hỏi (?). b) Nguyên nhân chủ quan Trong các tiết “Luyện nói”, ở học sinh vẫn còn tồn tại những vấn đề sau: - Khi trả lời thầy giáo học sinh có thói quen lặp lại từ ngữ nhiều, diễn đạt vụng về, thiếu mạch lạc. - Khi trình bày trước tập thể tác phong chưa mạnh dạn, tự tin, thường dựa vào dàn ý để đọc. - Học sinh nói nhỏ, cả lớp không nghe được, nhiều em phát âm chưa tốt, nói sai nhiều, còn sử dụng từ địa phương. Mặt khác, một số giáo viên chưa đầu tư nhiều cho tiết “Luyện nói”, chưa chú ý đến rèn kĩ năng nói cho học sinh. Hơn nữa hầu như trong các năm học trước chưa thực hiện một chuyên đề nào về tiết “Luyện nói”. c) Đánh giá, phân tích các vấn đề về thực trạng Mặc dù sách giáo khoa đã đổi mới theo khuynh hướng quan tâm tới việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh, phân phối chương trình đều có tiết “Luyện nói” ở cả hai học kì, cụ thể như sau: - Đối với lớp 6: + Tiết 29 - 43: Luyện nói kể chuyện + Tiết 83 - 84: Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả. + Tiết 96: Luyện nói về văn miêu tả - Đối với lớp 7: + Tiết 40: Luyện nói: Văn biểu cảm về sự vật, con người + Tiết 56: Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học + Tiết 112: Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề Ngoài ra, còn có những tiết rèn luyện kĩ năng trình bày, diễn đạt ý bằng lời nói. Nhưng thời lượng như thế chưa đảm bảo để rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn nhiều năm, tôi nhận thấy thực tế của việc nói và viết văn của học sinh trường tôi hiện nay còn yếu, nhất là học sinh lớp 6, 7. Đặc biệt là kĩ năng nói của học sinh, kĩ năng trình bày một vấn đề trước tập thể, đám đông lại càng khó hơn. Nhiều học sinh còn sợ sệt, rụt rè, nói vấp váp, thậm chí không nói được, không phân biệt được giữa nói và đọc; hoặc nếu bị thầy cô buộc phải nói thì các em thực hiện nhiệm vụ một cách đối phó, đại khái, không theo một trình tự, hệ thống nào cả, biến giờ “Luyện nói” như một giờ tập làm văn không chú ý đến vấn đề nói. Vì thế, vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên là làm thế nào để giờ dạy “Luyện nói” đem lại hiệu quả cao? Trong quá trình dạy học, tôi luôn trăn trở về phương pháp để nâng cao chất lượng của tiết dạy này. Trước thực tế đó, tôi quyết định chọn đề tài này để trình bày những suy nghĩ, kinh nghiệm của bản thân khi dạy các bài "Luyện nói" trong phân môn Tập làm văn nhằm phát huy năng lực nói của học sinh. Áp dụng sau hai năm học 2016 - 2017 và 2017 - 2018, tôi dần nhận thấy sự khác biệt trong các tiết học Ngữ văn, nhất là tiết “Luyện nói. Các em trở nên sôi nổi, hào hứng hơn mỗi khi tới tiết học, dường như lúc này các em đã đón nhận được một luồng điện vô hình nào đó lan truyền cho cả lớp làm nóng lên không khí học tập. Nhiều em muốn được trình bày trước lớp. Hơn nữa, các em cũng chịu khó chuẩn bị trước nội dung bài học theo hướng dẫn của giáo viên. Đặc biệt là chất lượng các bài nói được nâng lên. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a) Mục tiêu của giải pháp - Nhằm phát huy khả năng nói của học sinh và nâng cao chất lượng và hiệu quả của những tiết “Luyện nói” đối với học sinh lớp 6, 7 góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn trong nhà trường. - Phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp Để giúp học sinh thực hành tốt trong tiết “Luyện nói” trong phân môn Tập làm văn, tôi xin đưa ra một vài biện pháp sau: * Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn việc chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh (thực hiện ở tiết trước) Muốn một giờ luyện nói đạt kết quả tốt thì việc chuẩn bị bài ở nhà của các em là rất quan trọng. Muốn các em chuẩn bị bài tốt, có chất lượng thì sự chuẩn bị, hướng dẫn của giáo viên cũng phải chu đáo. Trong sách giáo khoa thường có một số vấn đề để giáo viên lựa chọn, vậy nên giáo viên cần chọn đề nào cho phù hợp, để có hiệu quả cao cho đối tượng học sinh của mình dạy. Khi đã chọn được đề phù hợp rồi, giáo viên phải phân việc cụ thể cho từng đối tượng học sinh (có thể phân tổ, nhóm) để học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng, tránh đối phó qua loa, đại khái. - Giáo viên cần định hướng cho các em trong việc chuẩn bị thật cụ thể, rõ ràng về cả nội dung và cách thức thực hiện: + Nói cái gì? (xác định đề tài) + Nói với ai? (xác định giao tiếp) + Nói trong hoàn cảnh nào? (xác định hoàn cảnh giao tiếp) + Nói như thế nào? (cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe) + Nói cho có hiệu quả (Phải thu thập, lựa chọn điều cần nói) + Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói. + Tránh đọc lại hoặc thuộc lòng để đọc lại bài văn chi tiết đã chuẩn bị. + Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và thuyết phục người nghe (biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt). + Tạo tâm thế vững vàng khi nói: Tự tin, mạnh dạn; Tác phong tự nhiên, giọng rõ ràng, lôi cuốn người nghe. + Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu. + Có lời chào khi kết thúc bài nói. Ví dụ: Trong tiết luyện nói về văn miêu tả ở lớp 6 có đề bài: Tả lại hình ảnh thầy giáo Ha- Men qua văn bản "Buổi học cuối cùng". Với đề bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh chuẩn bị như sau: Mở bài: Giới thiệu chung về thầy giáo Ha - men trong văn bản "Buổi học cuối cùng". Thân bài + Hình dáng, trang phục, diện mạo của thầy Ha - men trong buổi học cuối cùng. + Hành động, cử chỉ của thầy trong buổi học. + Lòng yêu nước nồng nàn của thầy được gửi gắm qua việc yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ của dân tộc. Kết bài Nhận xét chung về thầy Ha - men và nêu cảm nghĩ của em về thầy. - Giáo viên có thể chia lớp thành 4 nhóm và phân công cho học sinh như sau: + Nhóm 1 chuẩn bị phần "đặt vấn đề." + Nhóm 2 chuẩn bị phần "kết thúc vấn đề" + Nhóm 3, 4 chuẩn bị phần "thân bài". * Biện pháp thứ hai: Tổ chức giờ luyện nói - Bước thứ nhất: Kiểm tra khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh. Giáo viên không thể bỏ qua hay lơ là bước này. Vì đây là cơ sở cho tiết luyện nói. Mặt khác, kiểm tra chặt chẽ khâu chuẩn bị ở nhà sẽ tạo thói quen học tập, tự giác cho học sinh và có biện pháp kịp thời đối với những học sinh yếu hoặc lười học. Giáo viên cho các em kiểm tra theo cặp đôi trước khi vào tiết học, giáo viên chỉ kiểm tra một vài em, để dành thời gian cho học sinh luyện nói nhiều hơn. Học sinh kiểm tra theo cặp đôi - Bước thứ hai: Thống nhất dàn bài chung. Ở phần này giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những vấn đề có tính chất giải đáp vướng mắc trong phần chuẩn bị bài của các học sinh. Từ đó, xây dựng dàn bài chung làm yêu cầu về kiến thức để đánh giá nội dung bài nói của học sinh. - Bước thứ ba: Nêu yêu cầu trình bày bài nói (Rèn luyện nội dung và hình thức, tác phong nói) + Nói phải đúng trọng tâm, yêu cầu đề bài. Dựa vào dàn bài thống nhất để trình bày theo ý cho hệ thống. + Trình bày rõ ràng, mạch lạc, phát âm chuẩn, tránh phát âm địa phương, nói thành câu trọn vẹn. + Lời nói có ngữ điệu, diễn tả thái độ, tình cảm tự nhiên, phù hợp với nội dung nói. + Huy động nhanh vốn từ đúng, từ hay, đặt câu đúng và hay, dựng đoạn. + Bình tĩnh, đĩnh đạc, tự tin. Trước khi nói phải có lời chào, kết thúc phải có lời cảm ơn. - Bước thứ bốn: Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện cách phát âm một số âm, vần hay sai. (chỉ hướng dẫn học sinh tiết đầu tiên) + Âm A: Miệng mở rộng, lưỡi hạ thấp sát hàm dưới, đầu lưỡi chạm chân răng hàm dưới (không rào cản). + Âm E: Môi thả lỏng, lưỡi chạm hàm dưới, mép kéo sang hai bên một chút (không rào cản). Ví dụ: xôi xéo. + Âm O: Môi tròn xoe đưa về phía trước, lưỡi đưa về phía sau cuống lưỡi nâng lên, miệng mở rộng vừa phải (vừa quả trứng là được) (không rào cản). + Phụ âm NG: miệng mở rộng, hơi thoát ra từ cổ họng + Phụ âm T: Phát âm đầu lưỡi, răng hàm trên đè xuống lưỡi. + Dấu ngã (~): Phát âm trong cổ họng, âm đi từ trên xuống gần dấu nặng hất lên dấu sắc. Ví dụ: con đỉa bò trên đĩa mỡ. (giáo viên đọc) Giáo viên hướng dẫn cách phát âm + Dấu hỏi (?): âm đi từ trên xuống dấu nặng kết hợp với dấu sắc (hơi ở bụng bật mạnh ra). - Bước thứ năm: Học sinh trình bày bài nói. Giáo viên nên lựa chọn nhiều hình thức, nhiều cách trình bày bài nói khác nhau. Có thể cho học sinh trình bày bài nói theo từng phần: mở bài, thân bài, kết bài. Hoặc trình bày bài nói theo sự phân công của tổ, nhóm (chọn học sinh khá của tổ nhóm trình bày trước, để học sinh yếu có điều kiện học tập và chuẩn bị). Hay học sinh trình bày bài nói theo yêu cầu dựa vào các mức độ khác nhau: giỏi, khá, trung bình, yếu. - Bước thứ sáu: Học sinh nhận xét, đánh giá Để học sinh nhận xét bài của bạn chính là tạo điều kiện để nhiều học sinh có cơ hội được tham gia luyện nói. Vậy làm thế nào để cả lớp đều tham gia luyện nói theo đúng nghĩa của nó? Đó là yêu cầu quan trọng của tiết dạy. Thường thì những giờ luyện tập như thế này giáo viên không khéo léo điều khiển thì sẽ dẫn đến tình trạng một số em sẽ lơ là, không tham gia luyện tập. Vì vậy giáo viên phải tìm ra những biện pháp tốt nhất mà trong đó không thể bỏ qua việc dạy cách nghe bạn để có cách nói của riêng mình. Vấn đề đặt ra là giáo viên phải hướng cho học sinh biết đánh giá thế nào cho đúng. Giáo viên hướng dẫn học sinh theo dõi, nhận xét, đánh giá từng phần, từng nội dung cụ thể theo cách: chỉ ra ưu điểm, tồn tại của bạn cả về hình thức và nội dung thực hiện. Giáo viên có thể dẫn ra các câu hỏi như: + Về nội dung: Bạn A trình bày nội dung đã được chưa? (đã đảm bảo đúng theo yêu cầu của đề chưa, có chỗ nào lệch lạc? Theo em, em sẽ trình bày như thế nào?) + Về cách thức: Bạn đã trình bày đúng phương thức nói chưa? (Bạn đọc hay nói). Cử chỉ, thái độ giọng điệu của bạn trình bày đã phù hợp chưa? (Cử chỉ, thái độ, giọng điệu biểu hiện như thế nào?) - Bước thứ bảy: Giáo viên nhận xét, đánh giá Phát huy tinh thần của đổi mới phương pháp – lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Do đó, việc tạo không khí chan hòa, thoải mái vui tươi, cởi mở giữa thầy và trò, giữa trò với nhau là vô cùng cần thiết với tiết “Luyện nói” trong giờ
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phat_huy_nang_luc_noi_cua_hoc_sinh_qua.doc