Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả một số giờ giảng văn trong chương trình Ngữ văn Lớp 12 nhờ tích hợp kiến thức Lịch sử

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả một số giờ giảng văn trong chương trình Ngữ văn Lớp 12 nhờ tích hợp kiến thức Lịch sử

CƠ SỞ LÍ LUẬN

Quan điểm về nội dung và phương pháp giáo dục của Nhà nước ta là giáo dục toàn diện. Điều 5 Luật Giáo dục ghi rõ: “Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống", "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học". Quan điểm đó được cụ thể hóa trong việc thiết lập chương trình và biên soạn ở sách giáo khoa theo hướng tích hợp và phương pháp dạy học tích hợp được Bộ GD&ĐT chỉ đạo cho cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên trực tiếp đứng lớp học tập và áp dụng.

Thực tế, giữa các bộ môn khoa học xã hội đều có mối quan hệ với nhau như: Giữa Lịch sử và Văn học, giữa Lịch sử và Triết học, kiến thức của các bộ môn trên có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học các môn học là việc thực hiện tính kế thừa trong nhận thức của dân tộc và thế giới từ cổ đến kim, làm cho học sinh hiểu rõ sự phát triển của xã hội một cách thống nhất, liên tục, tránh nhận thức rời rạc, tản mạn. Đồng thời học sinh có thể thấy mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, giữa các môn học, từ đó phát triển tư duy cho học sinh.

Đặc trưng bộ môn Ngữ văn có khả năng lớn trong việc vận dụng phương pháp dạy học tích hợp như: Nội dung, kiến thức, mục tiêu cần đạt ở ba phân môn Đọc hiểu, Tiếng Việt, Làm văn có quan hệ mật thiết với nhau và đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao trình độ sử dụng Tiếng Việt và khả năng cảm thụ văn học cho học sinh. Nội dung các bài đọc văn trong chương trình đều có liên quan đến các kiến thức lịch sử, địa lí, dễ dàng trong việc tích hợp kiến thức liên môn.

 

doc 17 trang cuonglanz2a 8822
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả một số giờ giảng văn trong chương trình Ngữ văn Lớp 12 nhờ tích hợp kiến thức Lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI
TRƯỜNG THPT SỐ 1 SI MA CAI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: 
NÂNG CAO HIỆU QUẢ MỘT SỐ GIỜ GIẢNG VĂN 
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12 
NHỜ TÍCH HỢP KIẾN THỨC LỊCH SỬ
	Giáo viên: Đặng Thị Thùy Dương
 Chức vụ: Giáo viên
	Tổ CM: Văn - Sử - Ngoại ngữ - GDCD
	Đơn vị công tác: Trường THPT số 1 Si Ma Cai
Si Ma Cai tháng 03 năm 2014
MỤC LỤC
STT
 NỘI DUNG
TRANG
I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Lí do chọn đề tài
3
2
Mục đích nghiên cứu
3
3
Đối tượng nghiên cứu và khảo sát thực nghiệm
3
4
Phương pháp nghiên cứu
4
5
Thời gian nghiên cứu
4
II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1
Cơ sở lí luận
5
2
Cơ sở thực tiễn
5
3
Giải pháp thực hiện
6
3.1
Cách dạy tích hợp
6
3.2
Một số ví dụ minh họa
7
3.2.1
Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy tác phẩm "Tuyên ngôn độc lập" (Hồ Chí Minh)
7
3.2.2
Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy bài "Việt Bắc" của Tố Hữu
10
3.2.3
Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân
11
3.2.4
Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành
12
4
Hiệu quả của SKKN
12
5
Bài học kinh nghiệm
14
III
KẾT LUẬN
15
MỤC LỤC
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT
Chữ cái viết tắt
Chú thích
1
NXB
Nhà xuất bản
2
THPT
Trung học phổ thông
3
GD&ĐT
Giáo dục và đào tạo
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, không chỉ giúp cho giờ học trở nên sinh động hơn, mà còn phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Bởi dạy học liên môn góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở học sinh, từ đó giúp các em nhận thức vấn đề một cách thấu đáo. Dạy học liên môn trong môn Ngữ văn còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ ngay lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau.
Đối với môn Ngữ văn THPT, dạy học liên môn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt là việc tích hợp kiến thức lịch sử trong một số giờ giảng văn sẽ mang lại những hiệu quả không nhỏ. Tích hợp kiến thức lịch sử trong một số giờ giảng văn có thể giúp học sinh hiểu về hoàn cảnh lịch sử lúc tác phẩm ra đời, hiểu thêm về những sự kiện lịch sử được khái quát tái hiện trong tác phẩm, hiểu được bối cảnh của truyện,  đó sẽ là cơ sở để các em hiểu sâu sắc, toàn diện về nội dung tư tưởng cũng như giá trị của tác phẩm văn học.
Tuy nhiên, trong quá trình dạy - học văn hiện nay, không phải người giáo viên nào khi lên lớp cũng có ý thức liên hệ kiến thức lịch sử trong các giờ giảng văn, hoặc những giáo viên trẻ mới ra trường còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn phương pháp, lúng túng về kiến thức, khiến giờ giảng văn giảm tính hấp dẫn và không lôi cuốn, thuyết phục được học sinh. 
 Với những lí do trên, bản thân tôi nhận thấy việc tích hợp kiến thức lịch sử trong một số giờ giảng văn là vô cùng cần thiết, không những làm tăng tính sinh động cho bài học, mà còn cung cấp thêm kiến thức lịch sử là cơ sở để học sinh hiểu thấu đáo tác phẩm. Bằng những kinh nghiệm thực tế thu được khi dạy chương trình Ngữ văn lớp 12 qua hai năm học: năm họ 2012-2013 và năm học 2013-2014, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: "Nâng cao hiệu quả một số giờ giảng văn trong chương trình Ngữ văn lớp 12 nhờ tích hợp kiến thức lịch sử". 
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm ra những cách làm hiệu quả để nâng cao chất lượng một số giờ giảng văn trong chương trình Ngữ văn lớp 12 thông qua việc tích hợp kiến thức lịch sử.
+ Tăng hứng thú cho học sinh khi học tập bộ môn.
+ Cung cấp thêm kiến thức về lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc thêm về tác phẩm văn học.
+ Rèn luyện tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình tiếp nhận và lĩnh hội kiến thức.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM
a. Đối tượng nghiên cứu 
Trong giới hạn của đề tài, người viết chỉ đi sâu nghiên cứu việc tích hợp kiến thức lịch sử trong một số giờ giảng văn ở lớp 12 THPT.
b. Đối tượng khảo sát thực nghiệm
Đối tượng khảo sát thực nghiệm là học sinh lớp 12A3 (năm học 2012-2013) và học sinh lớp 12A4 (năm học 2013-2014) trường THPT số 1 Si Ma Cai - Lào Cai.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp khảo sát thực tế
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp so sánh, đối chiếu 
5. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu tại trường THPT số 1 Si Ma Cai trong hai năm học, năm học 2012-2013 và năm học 2013-2014 tại hai lớp 12: lớp 12A3 (năm học 2012-2013) và lớp 12A4 (năm học 2013-2014).
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Quan điểm về nội dung và phương pháp giáo dục của Nhà nước ta là giáo dục toàn diện. Điều 5 Luật Giáo dục ghi rõ: “Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống", "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học". Quan điểm đó được cụ thể hóa trong việc thiết lập chương trình và biên soạn ở sách giáo khoa theo hướng tích hợp và phương pháp dạy học tích hợp được Bộ GD&ĐT chỉ đạo cho cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên trực tiếp đứng lớp học tập và áp dụng.
Thực tế, giữa các bộ môn khoa học xã hội đều có mối quan hệ với nhau như: Giữa Lịch sử và Văn học, giữa Lịch sử và Triết học, kiến thức của các bộ môn trên có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học các môn học là việc thực hiện tính kế thừa trong nhận thức của dân tộc và thế giới từ cổ đến kim, làm cho học sinh hiểu rõ sự phát triển của xã hội một cách thống nhất, liên tục, tránh nhận thức rời rạc, tản mạn. Đồng thời học sinh có thể thấy mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, giữa các môn học, từ đó phát triển tư duy cho học sinh.
Đặc trưng bộ môn Ngữ văn có khả năng lớn trong việc vận dụng phương pháp dạy học tích hợp như: Nội dung, kiến thức, mục tiêu cần đạt ở ba phân môn Đọc hiểu, Tiếng Việt, Làm văn có quan hệ mật thiết với nhau và đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao trình độ sử dụng Tiếng Việt và khả năng cảm thụ văn học cho học sinh. Nội dung các bài đọc văn trong chương trình đều có liên quan đến các kiến thức lịch sử, địa lí,  dễ dàng trong việc tích hợp kiến thức liên môn.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 
Xuất phát từ thực tế, các tác phẩm văn học được đưa vào giảng dạy trong chương trình đều ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định và phản ánh tính chất thời đại lịch sử đó. Truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài, bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu, bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng,  là những tác phẩm văn học ra đời trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), những tác phẩm như "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, truyện ngắn "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi, trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm,  là những tác phẩm văn học ra đời trong thời kì cả nước sục sôi kháng chiến chống đế quốc Mĩ (1954-1965). Để hiểu sâu sắc nội dung của những tác phẩm trên, cũng như để hiểu được ý đồ tư tưởng của tác giả gửi gắm trong những tác phẩm đó, thì giáo viên cần giúp học sinh liên hệ, bám sát vào hoàn cảnh lịch sử khi tác phẩm ra đời, và bối cảnh lịch sử được phản ánh trong tác phẩm. Có như vậy bài học mới thực sự sâu sắc và mang lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên việc thực hiện tích hợp kiến thức lịch sử khi giảng dạy một số tác phẩm văn học trong nhà trường cũng gặp phải không ít khó khăn như: khả năng và kinh nghiệm của giáo viên còn hạn chế, mức độ nhận thức của học sinh vùng cao còn chậm, mỗi tác phẩm văn học có lượng kiến thức nhiều mà thời gian dành cho mỗi bài học rất ít (thường từ 2 đến 3 tiết/một tác phẩm văn học). Vì vậy, mặc dù nhiều giáo viên dạy văn đã có ý thức tích hợp kiến thức lịch sử để làm sinh động cho bài học Ngữ văn, nhưng hiệu quả đạt được thì chưa thực sự cao.
Trong quá trình trực tiếp tham gia giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THPT Số 1 Si Ma Cai, bản thân tôi nhận thấy mỗi tác phẩm văn học đều gắn liền với một thời kì lịch sử, và nội dung của nó bao giờ cũng phản ánh trung thực đặc điểm xã hội của thời kì lịch sử đó. Vì vậy trong quá trình lên lớp, nếu giáo viên khéo léo vận dụng những hiểu biết của mình về lịch sử để làm rõ từng khía cạnh, từng hình tượng trong tác phẩm thì học sinh sẽ tiếp thu rất nhanh và có ấn tượng sâu sắc về tác phẩm. Ngược lại, nếu giáo viên không gắn liền nội dung tác phẩm với hoàn cảnh lịch sử thì học sinh sẽ khó hình dung về hình tượng văn học, thậm chí ở một số tác phẩm nếu giáo viên không đặt trong hoàn cảnh ra đời cụ thể, gắn với những sự kiện lịch sử cụ thể, thì học sinh sẽ không thể hiểu đúng được về tác phẩm. Ví dụ khi dạy bài "Tây Tiến" trong chương trình Ngữ văn 12 tập một, giáo viên cần đặt bài thơ trong hoàn cảnh ra đời: "Tây Tiến" là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, giữa những ngày đầu vô cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ nhưng lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Quang Dũng có mặt trong đoàn quân Tây Tiến từ ngày đầu thành lập, là đại đội trưởng ở đó đến cuối năm 1948 rồi chuyển sang đơn vị khác. Cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây), Quang Dũng nhớ đơn vị cũ mà viết bài thơ này, ban đầu đặt tên là Nhớ "Tây Tiến", sau đổi lại là "Tây Tiến". Học sinh hiểu hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với mốc lịch sử của dân tộc ta trong kháng chiến chống Pháp, chính là cơ sở để hiểu nỗi nhớ của nhà thơ về đơn vị cũ, cũng là cảm xúc chủ đạo chi phối, xuyên suốt cả 3 khổ thơ trong bài thơ "Tây Tiến". 
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Cách dạy tích hợp
Trong các giờ giảng văn, giáo viên lựa chọn những bài giảng phù hợp để tích hợp kiến thức lịch sử. Cách làm của giáo viên phải linh hoạt, khéo léo, cần đảm bảo kiến thức trọng tâm của bài học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định. Việc vận dụng tích hợp kiến thức lịch sử chỉ nhằm làm cho bài học thêm sinh động, khắc sâu thêm kiến thức, phát huy khả năng liên hệ, chủ động, tích cực của học sinh. Tuyệt đối không lạm dụng kiến thức lịch sử để biến giờ giảng văn thành giờ dạy lịch sử, không liên hệ quá lan man làm mất trọng tâm của bài học, không làm phân tán sự chú ý của học sinh, đồng thời việc lựa chọn kiến thức lịch sử để đưa vào bài học phải đảm bảo tính phù hợp, hiệu quả, đảm bảo tính chính xác của sự thật lịch sử, có như vậy mới thuyết phục được học sinh và nâng cao được hiệu quả của tiết dạy.
Về cách thức tích hợp, giáo viên có thể liên hệ kiến thức lịch sử ở mọi thời điểm trong bài giảng như: mở đầu tiết dạy, giới thiệu bài mới, tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, hay trong quá trình đọc - hiểu từng phần của bài học Tùy theo kiến thức lịch sử khó hay dễ, học sinh đã được học trong môn lịch sử hay chưa từng được học, mà giáo viên lựa chọn phương pháp phù hợp như: phát vấn học sinh, giảng giải, thuyết trình, bình luận  về kiến thức lịch sử.
3.2. Một số ví dụ minh họa
3.2.1. Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy bài "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh.
“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn chương chính luận Việt Nam, vừa có giá trị như một áng thiên cổ hùng văn của muôn đời, vừa là một văn kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng, tuyên bố về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 12 tập một.
a. Tích hợp kiến thức lịch sử khi tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Khi tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, giáo viên liên hệ kiến thức lịch sử giúp học sinh ôn lại đôi nét tình hình chính trị lúc bấy giờ. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp phát vấn trong khoảng thời gian tối đa là 5 phút, huy động kiến thức lịch sử học sinh đã được học, yêu cầu học sinh nêu vài nét về tình hình trong nước và thế giới năm 1945. Trên cơ sở học sinh trình bày, giáo viên nhấn mạnh một số ý cơ bản: 
Về tình hình thế giới: Năm 1945, quân phát xít đứng trước nguy cơ thua trận, quân Đồng minh trên đà chiến thắng, trước tình hình đó, nhiều nước đế quốc đã nhòm ngó Đông Dương - thuộc địa cũ của Pháp nay đang mất về tay Nhật. Không đếm xỉa đến chủ quyền của Việt Nam, hội nghị Pốtxđam tháng 7-1945 quyết định quân Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, còn quân Tưởng Giới Thạch vào từ vĩ tuyến 16 trở ra. Tướng Đờ Gôn thì tuyên bố sẽ tổ chức Đông Dương thành liên bang gồm năm "nước tự trị": ngoài Lào, Campuchia còn có ba "nước" Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, tất cả đặt dưới sự lãnh đạo của quan toàn quyền Pháp! Như vậy các lực lượng thù địch đang lăm le tái chiếm nước ta, ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau lưng quân đội Anh (thay mặt đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương, ở miền Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, tay sai của đế quốc Mỹ, đã chực sẵn ở biên giới; mâu thuẫn giữa Anh - Pháp - Mỹ và Liên Xô có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương. Trong khi đó, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai này, thực dân Pháp đã tung ra những lý lẽ trong dư luận Thế giới rằng: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên sau khi phát xít Nhật bị quân đồng minh đánh bại. 
Tình hình trong nước: Để chống lại âm mưu đế quốc, bảo vệ chủ quyền độc lập của mình, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh (do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo) nhân dân ta tranh thủ thời cơ Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Nhật ngày 15/8/1945, đã đứng lên khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19/8, ở Huế ngày 23/8 và ở Nam Bộ ngày 25/8. Chỉ trong vòng một tuần lễ, nhân dân cả nước đã giành được chính quyền. Ngày 26/8/1945, Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Bác đã soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân và Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trước khi quân Anh và quân Tưởng tràn vào Việt Nam. 
Nếu không đặt “Tuyên ngôn độc lập” trong hoàn cảnh ra đời gắn liền với những sự kiện lịch sử như trên, học sinh sẽ không thấy hết được giá trị và ý nghĩa của bản Tuyên ngôn. Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, nên bản Tuyên ngôn độc lập không chỉ khẳng định chủ quyền của Việt Nam mà còn có vai trò đánh đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Việt Nam của Thực dân Pháp và âm mưu can thiệp vào Việt Nam của các đế quốc khác, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế. "Tuyên ngôn độc lập" đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử Việt Nam, kết thúc 80 năm nhân dân ta phải chịu đau khổ, lầm than dưới ách thống trị của thực dân Pháp, 5 năm bị phát xít Nhật đô hộ và hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến.
b. Tích hợp kiến thức lịch sử trong phần Đọc - hiểu văn bản
Bản "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh chia làm 3 phần: Phần đặt vấn đề (cơ sở pháp lí của bản Tuyên ngôn), phần giải quyết vấn đề (cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn), phần kết thúc vấn đề (Lời tuyên bố độc lập và quyết tâm bảo vệ độc lập).	
Khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần hai: cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn (Nội dung phần này thực hiện trong 15 phút của tiết học), giáo viên có thể tích hợp kiến thức lịch sử bằng phương pháp thuyết trình, bình luận xen kẽ vào các ý chính, để làm rõ: ở phần này “Tuyên ngôn độc lập” chẳng khác nào một bản cáo trạng đanh thép nhằm tố cáo tội ác của thực dân Pháp với hai tội trạng: "Tội xâm lược Việt Nam gây bao đau khổ cho đồng bào Việt Nam và tội bán Việt Nam cho Nhật”.
Trước hết là tội xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp bắt đầu đặt chân xâm lược nước ta từ 1858 với sự kiện nổ súng ở cảng Đà Nẵng. Sau khi bình định được nước ta, chúng tập trung khai thác tài nguyên, thiên nhiên, vật liệu để làm giàu cho chính quốc. Để vạch trần tội ác này, Hồ Chí Minh đã tập trung tố cáo trên nhiều phương diện. 
Trước hết là phương diện chính trị. Thực dân Pháp dùng chính sách “chia để trị”. Theo sắc lệnh ngày 17-10-1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19- 4-1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt làm 3 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Ngoài ra chúng còn triệt để thực hiện chính sách "dùng người Việt trị người Việt", chúng vẫn duy trì và tăng cường bộ máy quan lại thuộc giai cấp địa chủ phong kiến từ cấp phủ, quận, tổng, đến làng xã và biến giai cấp này thành tay sai đắc lực trong việc vơ vét bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành chính sách độc quyền về kinh tế. Cụ thể, trong nông nghiệp chúng chiếm đoạt hàng loạt ruộng đất của nhân dân ta để lập đồn điền trồng cây công nghiệp, lúa, nhiều nhất là cao su. Tính đến năm 1930, diện tích ruộng đất bị thực dân Pháp chiếm đoạt lên đến 1,2 triệu ha. Trong công nghiệp, chúng độc quyền khai thác các mỏ khoáng sản dồi dào như than đá, mỏ thiếc, kẽm, vàng  Giai cấp tư sản Việt Nam bị chèn ép, kìm hãm, không thể tự do phát triển được. Trong lĩnh vực thương nghiệp, chúng thiết lập một hàng rào thuế quan nghiêm ngặt, không cho hàng của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài cũng như hàng của nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam nhằm độc quyền chiếm giữ thị trường. Chúng đặt ra những thứ thuế dã man, vô lí làm cho mọi giai tầng của ta không thể ngóc đầu lên được. 
Về văn hoá - xã hội, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân, tức là làm cho dân ngu để dễ bề cai trị, chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng còn đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện để dân ta bị suy kiệt về nòi giống 
Chính sách xâm lược của thực dân Pháp kết hợp với phát xít Nhật từ mùa thu năm 1940 đã dẫn đến hậu quả cuối năm 1944 - đầu năm 1945, hơn 2 triệu đồng bào Việt Nam bị chết đói từ Quảng Trị trở ra Bắc Kì. Với cách tố cáo này, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thực dân Pháp không phải là kẻ bảo hộ nước ta, đến khai hoá văn minh cho nước Việt Nam ta như luận điệu chúng đang lừa bịp công luận quốc tế.
Tội ác thứ hai của kẻ thù là tội dã tâm bán Việt Nam cho phát xít Nhật. Lịch sử nêu rõ: mùa thu năm 1940, phát xít Nhật tràn qua biên giới Việt – Trung vào Việt Nam để mở rộng căn cứ đánh Đồng minh. Vì quá bất ngờ nên thực dân Pháp đã mở cửa nước ta rước Nhật. Bắt đầu từ đây nhân dân Việt Nam chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Đã nhiều lần Việt Minh kêu gọi thực dân Pháp đứng về phía Việt Minh để chống Nhật. Thực dân Pháp chẳng những không nghe mà còn tiếp tục chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Trong vòng 5 năm trời (từ mùa thu năm 1940 đến 19 tháng 3 năm 1945) thực dân Pháp đã hai lần nhục nhã bán Việt Nam cho Nhật. Điều này chứng tỏ rằng thực dân Pháp không hề đứng về phía Đồng minh chống Nhật mà là kẻ đầu hàng phát xít Nhật một cách nhục nhã.
Các kiến thức lịch sử trên được giáo viên bình luận, thuyết trình xen kẽ vào các ý chính, mỗi phần bình luận chỉ sử dụng tối đa là 2 đến 3 phút. Cách tích hợp trên giúp học sinh hình dung rõ ràng về hoàn cảnh lịch sử trong nước cũng như thế giới khi bản "Tuyên ngôn độc lập" ra đời, từ đó giúp các em cảm nhận sâu sắc mục đích, giá trị và ý nghĩa của bản Tuyên ngôn cũng như cách lập luận đanh thép, thuyết phục của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3.2.2. Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy bài "Việt Bắc" của Tố Hữu
Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 
Khi dạy đoạn 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_mot_so_gio_giang_van.doc
  • docBáo cáo tóm tắt.doc
  • docĐơn, báo cáo SKKN 2013-2014 Dương.doc