Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THCS

 Trong điều kiện đổi mới hiện nay, xã hội đang có những chuyển biến sâu rộng và to lớn về mọi mặt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã được cải thiện đáng kể. Nhất là các em học sinh điều kiện ăn, học có rất nhiều thuận lợi. Từ quần áo, sách vở, dụng cụ phục vụ học tập đến ăn uống sinh hoạt đều khá đầy đủ so với trước kia đặc biệt trong thời đại CNTT phát triển như vũ bão ngày nay việc học sinh đựơc tiếp cận với nhiều luồng tri thức, tiếp cận được nhiều cái mới, cái hay. Song cũng có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn tác động đến đại đa số thanh thiếu niên rất nhiều. Đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo Nghị quyết TW 2 khóa VIII nhấn mạnh: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Trong những năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức công dân, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện”.

Đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên được hình thành từ môi trường gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó môi trường giáo dục của nhà trường đóng vai trò quan trọng, góp phần to lớn đối với sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ. Tuy nhiên tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, tội phạm và bạo lực trong một bộ phận học sinh vẫn xảy ra, gây lo lắng, bức xúc trong dư luận xã hội. Đây cũng là điều trăn trở thường xuyên của ngành giáo dục.

 Vụ trưởng Vụ Công tác học sinh, sinh viên ông Phùng Khắc Bình đã nói về một số biểu hiện vi phạm đạo đức, lối sống, tội phạm trong học sinh phổ thông hiện nay đó là, lối sống ích kỷ, ham hưởng thụ, đua đòi chạy theo các giá trị vật chất dẫn đến sao nhãng học tập, tham gia tệ nạn xã hội và phạm tội. Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ học sinh biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống đáng lo ngại như: thiếu tôn trọng thầy cô giáo, coi thường kỷ luật nhà trường, thường xuyên nói tục, chửi thề; thích thể hiện bản thân một cách thái quá Và một vấn đề nhức nhối nữa trong học sinh hiện nay là tình trạng chơi “games”, “chát”. Tuy là một hình thức giải trí, phù hợp với lứa tuổi nhưng nếu quá đam mê thì tác dụng sẽ ngược lại.

 

doc 16 trang thuychi01 6242
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài :
 Trong điều kiện đổi mới hiện nay, xã hội đang có những chuyển biến sâu rộng và to lớn về mọi mặt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã được cải thiện đáng kể. Nhất là các em học sinh điều kiện ăn, học có rất nhiều thuận lợi. Từ quần áo, sách vở, dụng cụ phục vụ học tập đến ăn uống sinh hoạt đều khá đầy đủ so với trước kia đặc biệt trong thời đại CNTT phát triển như vũ bão ngày nay việc học sinh đựơc tiếp cận với nhiều luồng tri thức, tiếp cận được nhiều cái mới, cái hay. Song cũng có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn tác động đến đại đa số thanh thiếu niên rất nhiều. Đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo Nghị quyết TW 2 khóa VIII nhấn mạnh: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Trong  những năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức công dân, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minhtổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện”.
Đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên được hình thành từ môi trường gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó môi trường giáo dục của nhà trường đóng vai trò quan trọng, góp phần to lớn đối với sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ. Tuy nhiên tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, tội phạm và bạo lực trong một bộ phận học sinh vẫn xảy ra, gây lo lắng, bức xúc trong dư luận xã hội. Đây cũng là điều trăn trở thường xuyên của ngành giáo dục.
 	Vụ trưởng Vụ Công tác học sinh, sinh viên ông Phùng Khắc Bình đã nói về một số biểu hiện vi phạm đạo đức, lối sống, tội phạm trong học sinh phổ thông hiện nay đó là, lối sống ích kỷ, ham hưởng thụ, đua đòi chạy theo các giá trị vật chất dẫn đến sao nhãng học tập, tham gia tệ nạn xã hội và phạm tội. Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ học sinh biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống đáng lo ngại như: thiếu tôn trọng thầy cô giáo, coi thường kỷ luật nhà trường, thường xuyên nói tục, chửi thề; thích thể hiện bản thân một cách thái quáVà một vấn đề nhức nhối nữa trong học sinh hiện nay là tình trạng chơi “games”, “chát”. Tuy là một hình thức giải trí, phù hợp với lứa tuổi nhưng nếu quá đam mê thì tác dụng sẽ ngược lại.
Như vậy, đạo đức học sinh đang là một vấn đề nóng được xã hội hết sức quan tâm, là niềm trăn trở của các thầy cô giáo và những người làm công tác trồng người, là một phần trách nhiệm giáo dục của nhà trường THCS.
 Trường THCS Minh Lộc cũng không đứng ngoài thực trạng đó. Trong những năm qua, nhiều gia  đình, cha mẹ  mải làm ăn, lo kiếm tiền, không chăm lo đến sự học hành, đời sống của con trẻ. Hàng loạt các hàng quán mọc lên với với đủ loại các trò chơi, bi A, games, chát.  Xuất phát từ những lý do khách quan, chủ quan như đã phân tích, là người làm công tác quản lý một trường THCS, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THCS”.
2. Mục đích nghiên cứu:
 Giúp học sinh nhận thức được các chuẩn mực đạo đức của xã hội, rèn luyện kỹ năng, hành vi theo các chuẩn mực đó và hình thành thái độ, ý thức trong học sinh về đạo đức.
 Giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu hoà bình, có tinh thần cộng đồng và quốc tế, có tinh thần lao động sáng tạo, có thái độ xây dựng  và bảo vệ môi trường...
3. Đối tượng nghiên cứu: 
 Đề tài nghiên cứu đối tượng học sinh trường THCS Minh Lộc - Hậu Lộc - Thanh Hóa, nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung, thay đổi hành vi đạo đức của những học sinh cá biệt nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu: 
Có nhiều phương pháp để GDĐĐHS: 
 - Phương pháp tác động vào nhận thức tình cảm: đàm thoại, tranh luận, kể chuyện,  giảng giải, khuyên răn;
 - Phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn giao việc, rèn luyện, tập thói quen; 
 - Phương pháp kích thích tình cảm và hành vi: thi đua, nêu gương, khen thưởng, trách phạt
5. Những điểm mới của SKKN:
 - Bổ sung biện pháp 2: Phối kết hợp với các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
 - Bổ sung những kết quả đã đạt được trong quá trình áp dụng đề tài từ năm học 2015 - 2016 đến nay.
B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
1. Khái niệm về đạo đức:
Đạo đức là một  hệ thống  những quy tắc, những chuẩn mực mà qua đó con người  tự nhận thức và điều  chỉnh  hành vi của mình vì hạnh phúc của cá nhân, lợi ích của tập thể và cộng đồng.
2. Giáo dục đạo đức:
2.1. Mục tiêu giáo dục đạo đức
          Chuyển hóa những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức nhân cách cho học sinh, hình thành ở học sinh thái độ đúng đắn trong giao tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của xã hội, thói quen chấp hành các quy định của pháp luật.
2.2. Chức năng giáo dục đạo đức:
        Làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, sống và làm việc theo pháp luật, sống có kỷ cương, nền nếp, có văn hóa trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội 
và giữa con người với nhau.
II- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Khái quát đặc điểm, tình hình kinh tế -xã hội và giáo dục của xã Minh Lộc.
 - Trường THCS Minh Lộc - Huyện Hậu Lộc là trường nằm ở vùng biển của huyện Hậu Lộc, có số học sinh đông (Năm học 2016 – 2017 có 926 HS). Minh Lộc là một xã thuộc vùng bãi ngang có điều kiện kinh tế xã hội còn rất nhiều khó khăn, phức tạp, dân số quá đông khoảng 15.670 dân. Dân số chủ yếu là làm ruộng và đánh bắt thuỷ, hải sản. Vì vậy tỷ lệ hộ có điều kiện kinh tế khó khăn trong xã còn cao, sự chênh lệch giàu nghèo trong dân ngày càng cách biệt, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục của nhà trường. 
 - Thực trạng ở trường cũng có đến gần 40% số học sinh có bố, mẹ đi làm ăn xa, hoặc đi đánh bắt dài ngày không có điều kiện chăm lo, quan tâm đến con, gửi con lại cho ông bà già chăm sóc cho nên phần lớn số học sinh thuộc diện này thường có biểu hịên không tốt về đạo đức lối sống. Từ cách ăn, mặc lôi thôi (học sinh lớp 6,7), hay chạy theo mốt ( học sinh lớp 8,9), nói năng tự do thiếu lịch sự, lối sống rất tuỳ tiện, buông thả, thích thì đi học, không thích thì nghỉ, hoặc bữa đi, bữa nghỉ không xin phép. Vì thế tình trạng học sinh bỏ học năm nào cũng diễn ra. Nhất là vào các dịp trước, sau tết và nghỉ hè. Để đảm bảo công tác phổ cập, duy trì sĩ số nhà trường lại vào cuộc tìm đủ mọi biện pháp để vận động, huy động học sinh ra lớp. Tình trạng học sinh ăn quà bên ngoài nhà trường, vứt rác bừa bãi vẫn thường xảy ra. Vấn đề trang phục thường xuyên vi phạm mặc dù nhà trường đã may đồng phục cả mùa đông và mùa hè nhưng rất nhiều em không thực hiện nghiêm túc, một số em thì thường xuyên đi học chậm lý do ngủ quên không ai gọi hoặc ham chơi điện tử (trên địa bàn xã Minh Lộc có 8 quán Internet).Hàng ngày, hàng tuần phụ trách đội cờ đỏ và lãnh đạo nhà trường giải quyết rất nhiều trường hợp học sinh vi phạm như vậy, có những em tuần nào, tháng nào cũng bị phê bình trước cờ vẫn không chịu tiến bộ.
 Có những gia đình cha mẹ sống không gương mẫu, cha mẹ ly hôn; hay buông lỏng giáo dục, phó mặc cho xã hội, cho nhà trường “trăm sự nhờ thầy” 
 Công tác quản lý và giáo dục đạo đức của nhà trường đã gặp những khó khăn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng xuống cấp về đạo đức học sinh do những nguyên nhân sau: 
 Về nhà trường, có lúc, có nơi uy tín người thầy bị sa sút, các giá trị truyền thống “Tôn sư trọng đạo bị nhìn nhận một cách méo mó, vật chất hóa, thực dụng; có trường hợp người thầy không giữ được tư thế đáng kính trọng trong quan hệ thầy trò đã tác động xấu đến uy tín của người thầy trong suy nghĩ học sinh và không ít phụ huynh.
     Về gia đình, thiếu sự quan tâm, buông lỏng con cái, phó mặc cho nhà trường và thầy cô.
 Về xã hội, những hạn chế, tác động xấu từ môi trường của thời kỳ mở cửa, hội nhập, mặt trái của cơ chế thị trường có cơ hội xâm nhập làm cho học sinh suy thoái về đạo đức. Các tệ nạn như lạm dụng các trang mạng xã hội, chơi games, nghiện hútđã tác động xấu tới ảnh hưởng trực tiếp đến công tác GDĐĐ học sinh.
2. Những thuận lợi, khó khăn trong công tác đổi mới quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS Minh Lộc
* Những điểm mạnh (thuận lợi):
- Địa phương có truyền thống trong phong trào khuyến học, khuyến tài có nhiều người đỗ đạt, có địa vị cao trong xã hội, thường xuyên có những hoạt động quyên góp ủng học quỹ khuyến học, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục ở quê hương như: Gia đình ông bà Kỳ - Lục, gia đình ông bà Hằng - Đoàn.... 
- Lãnh đạo xã và các tổ chức chính trị những năm gần đây đặc biệt quan tâm một cách thiết thực đến công tác giáo dục cả về vật chất lẫn tinh thần, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kì 2015-2020 đặt mục tiêu xây dựng trường THCS Minh Lộc đạt trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2. Vì vậy, địa phương đã có những biện pháp quan tâm tích cực về CSVC như kêu gọi sự ủng hộ của con em thành đạt, những nhà hảo tâm, doanh nhân, doanh nghiệp trong xã xây dựng khu hiệu bộ hơn 2 tỷ đồng, kêu gọi dự án xây dựng 6 phòng học và từ nguồn ngân sách xã 2 phòng với tổng giá trị 4 tỉ đồng. Mua sắm dụng cụ văn phòng, máy tính, đóng mới bàn ghế phục vụ cho công tác dạy và học của nhà trường. 
- Nhà trường có quy mô trường lớp lớn (24 lớp) có đội ngũ CBQL, CBGV đông đảo, đa số tuổi còn trẻ có năng lực, trình độ chuyên môn, tận tâm, nhiệt huyết với nghề nghiệp, nhà trường liên tục nhiều năm liền đạt Danh hiệu TTLĐXS và đã được thủ tướng chính phủ tặng bằng khen năm học 2010-2011, Được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen năm học 2013 - 2014, tặng cờ thi đua dẫn đầu khối giáo dục THCS năm học 2015 - 2016, được Bộ GD&ĐT tặng cờ thi đua năm học 2015 – 2016. Chi bộ luôn luôn đạt chi bộ trong sạch vững mạnh, công đoàn xuất sắc cấp tỉnh, đặc biệt tổ chức Đoàn- Đội- Hội nhiều năm được huyện, tỉnh, trung ương tặng bằng khen và cờ thi đua.
 Đó là những thuận lợi cơ bản cho công tác dạy và học của nhà trường nói chung và công tác giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng. Bên cạnh những thụân lợi nói trên thì những khó khăn trong giáo dục của nhà trường cũng gặp không ít khó khăn trở ngại :
* Những điểm yếu ( khó khăn):
- Là một xã tuy đạt tiêu chuẩn nông thôn mới năm 2016 nhưng kinh tế, văn hoá xã hội còn nhiều khó khăn, nhiều tập tục cổ hủ lạc hậu đang còn tồn tại trong nhân dân như mê tín dị đoan, cúng bái, đồng bóng, đình đám, sinh đẻ nhiều, tư tưởng trọng nam, tư tưởng thực dụng đang còn nặng nề, ăn ở, sinh hoạt của một bộ phận các hộ dân ở đây chưa đảm bảo quy chuẩn vệ sinh
 Mặt bằng dân trí còn thấp, dẫn tới nhận thức nói chung và nhận thức về giáo dục nói riêng còn nhiều hạn chế .
 Số gia đình (bố, mẹ) học sinh đi làm ăn xa nhiều (khoảng 40%) con cái gửi cho ông bà già ít và không có điều kiện quan tâm đến con cái, thậm chí có gia đình không biết con học lớp mấy. Vì vậy, số học sinh này thường gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề học tập và rèn luyện. Một bộ phận sống tự do, buông thả nên dẫn tới lêu lổng, hư hỏng, bỏ học, sa vào các tệ nạn xã hội, phạm pháp khó giáo dục. Một bộ phận học sinh bỏ học theo bố mẹ đi làm ăn xa.
 Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi tâm sinh lý có nhiều thay đổi chuyển biến khác thường. Các em đang phát triển từ trẻ con thành người lớn nên có nhiều diễn biến phức tạp về tâm sinh lý, các em không muốn mọi người coi mình như trẻ con nữa, muốn thử sức, dám làm mọi việc để chứng tỏ mình là người lớn, không muốn người lớn can thiệp vào công việc của mình, dễ bị kích động, tự ái, sẵn sàng phản ứng lại người lớn nếu không đồng ý, thậm chí có những hành động côn đồ, bất chấp tất cả, coi thường tất cả. Phải nói đây là lứa tuổi nhạy cảm khó giáo dục nếu không cẩn thận, không nắm bắt được tâm, sinh lý của các em thì kết quả giáo dục đạo đức sẽ không được tốt. Các nhà nghiên cứu về giáo dục cho rằng ở cấp THCS có nhiều học sinh cá biệt nhất trong cấp học phổ thông là vì những lý do như vậy. Tuy nhiên, đối với những người làm công tác giáo dục nói chung và những nhà sư phạm, nhà quản lý giáo dục nói riêng phải có phương pháp phù hợp, hiệu quả trong cách giáo dục. Để thực hiện có hiệu quả các phương pháp giáo dục đó lại tùy thuộc vào khả năng, năng lực của từng người, điều kiện ở trường, từng địa phương mà có biện pháp thích hợp.
3. Thực trạng vi phạm đạo đức của học sinh ở trường THCS Minh Lộc.
          Kết quả khảo sát như sau:
	- 72,1% học sinh chăm chỉ, chuyên cần học tập, ý thức chấp hành nội quy của nhà trường tốt.
- 26,2% học sinh có ý thức học tập, chấp hành nội quy nhà trường nhưng thỉnh thoảng vẫn vi phạm những lỗi như: quên vở bài tập, nói chuyện riêng, đi học muộn
- 1,7% nghỉ học, trốn tiết, lười học bài cũ, gian lận trong kiểm tra thi cử, nói chuyện riêng trong giờ học, dùng điện thoại di động, nói năng giao tiếp với thầy cô chưa đúng mực, vô lễ, phá hại tài sản của công, lấy cắp tài sản cá nhân, đánh nhau, vi phạm luật giao thông. 
Nguyên nhân dẫn tới việc học sinh vi phạm đạo đức là do sự quản lý của gia đình chưa chặt chẽ, còn nuông chiều con cái hoặc các em thiếu sự quan tâm của gia đình. Học sinh không có sự rèn luyện. Mặt khác, do tác động tiêu cực của bạn bè và sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ: điện thoại, internet, games. 
III- BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
Biện pháp 1: Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của các thành viên, tổ chức trong nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
    	 Tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với các lực lượng tham gia GDĐĐHS, đây là một biện pháp hết sức quan trọng vì có nhận thức đúng mới có hành động đúng, là cơ sở để hướng đến một kết quả hoàn thiện. Vì vậy, Hiệu trưởng phải có nhiệm vụ tuyên truyền cho các lực lượng tham gia GDĐĐ học sinh thông qua tổ chức quán triệt những Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, tổ chức học nhiệm vụ năm học của ngành, của nhà trường về công tác GDĐĐ học sinh nhằm mục đích làm cho các thành viên nhà trường nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác giáo dục và rèn luyện đạo đức học sinh. Giúp cho việc phối hợp các lực lượng  giáo dục đạo đức cho học sinh được tiến hành một
cách đồng  bộ, chặt chẽ và có hiệu quả. 
Đặc biệt, đối với giáo viên cần tuyên truyền thực hiện tốt cuộc vận động “ Học tập theo phong cách, đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh” gắn với cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”, mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức để học sinh noi theo.
Bên cạnh việc tuyên truyền, cần phổ biến đến học sinh những quy định của Nhà trường, nội quy, Điều lệ Đội thiếu niên để học sinh thực hiện bằng hình thức tổ chức hội thi, sân khấu hóa, các trò chơi dân gianvào dịp 20/11, 22/12, 26/3. Phổ biến về tiêu chuẩn đánh giá hạnh kiểm của học sinh để từ đó học sinh có ý thức phấn đấu rèn luyện.
   	- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh, đặc biệt chú 
trọng đến cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cụ thể: 
*) Đối với lãnh đạo nhà trường;
- Hàng năm Hiệu trưởng phải xây dựng được kế hoạch công tác GDĐĐ học sinh, triển khai đến toàn thể cán bộ, giáo viên, phụ huynh, học sinh trong toàn trường. Phân công nhiệm vụ cho giáo viên chủ nhiệm, BCH chi đoàn lên kế hoạch hoạt động cho từng lớp, kế hoạch hoạt động của liên đội nhằm tôn vinh, phát huy các giá trị lịch sử truyền thống. Tổ chức cho học sinh học nội quy nhà trường, nhiệm vụ của người học sinhKế hoạch được cụ thể hóa từng công việc trong từng tuần, từng tháng, vào các ngày lễ như 20/10, 20/11, 22/12, 26/3
*) Đối với các lực lượng giáo dục khác. 
 Lãnh đạo nhà trường lên kế hoạch trình báo cáo với Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã về công tác giáo dục (trong đó trình kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh) và xây dựng kế hoạch năm học sao cho phù hợp.
 BGH họp với Ban đại diện hội cha mẹ học sinh thống nhất đưa ra phương pháp giáo dục đạo đức. Lựa chọn Ban đại diện hội phụ huynh các lớp dựa trên các tiêu chí về đạo đức, năng lực, lòng nhiệt tình và phương pháp giáo dục con cái của các phụ huynh.
BGH nhà trường chỉ đạo các tổ chức đoàn thể trong nhà trường xây dựng kế hoạch phối hợp các lực lượng giáo dục. Trong kế hoạch cần thể hiện rõ sự phối hợp giữa BCH đoàn trường, Đội thiếu niên, Đoàn xã, hội khuyến học, hội cha mẹ học sinh, ban lãnh đạo thôn xóm
*) Đối với giáo viên: 
BGH nhà trường chỉ đạo mỗi giáo viên phải xây dựng hoạch GDĐĐ học sinh trong môn dạy, lớp dạy dựa theo kế hoạch của BGH đưa ra và có biện pháp giáo dục học sinh cá biệt. Nhất là GVCN cần có kế hoạch cụ thể về công tác GDĐĐ học sinh lớp mình chủ nhiệm. Kế hoach phải cụ thể từng đối tượng học sinh, hoàn cảnh học sinh trên lớp. Giáo viên báo cáo BGH kết quả thực hiện của lớp vào những buổi giao ban cuối tuần.
- Nâng cao vai trò của GVCN: 
GVCN là một lực lượng quan trọng trong công tác GDĐĐ học sinh, là người thực hiện sự phối hợp, liên kết bền chặt với giáo viên bộ môn, các đoàn thể trong nhà trường, giữa “Gia đình - Nhà trường - Xã hội”. GVCN là người thay mặt Hiệu trưởng, quản lý học sinh lớp mình phụ trách, họ chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng và Hội đồng giáo dục của trường, về chất lượng toàn diện của học sinh lớp mình phụ trách. Vì thế có thể nói GVCN là  nhà quản lý giáo dục, quản lý và giáo dục một tập thể nhỏ, thế hệ công dân trẻ, chuẩn bị bước vào đời. Chính vì thế, BGH phải lựa chọn và phân công giáo viên chủ nhiệm sao cho phù hợp với từng lớp, từng đối tượng học sinh:
+ Trước hết BGH phải căn cứ vào năng lực, lòng nhiệt tình, phương pháp giáo dục, cái tâm của người giáo viên để giao lớp chủ nhiệm sao cho phù hợp. Đây là khâu hết sức quan trọng, nó chi phối toàn bộ hoạt động giáo dục đạo đức của nhà trường. Khi tham gia công tác giáo dục, chỉ đạo GVCN cần thực hiện được những việc làm sau:
- Nắm vững các chỉ số quản lý như: tên, tuổi, số lượng, hoàn cảnh gia đình của học sinh, trình độ học sinh. 
- Xây dựng kế hoạch hoạt động, các biện pháp thực hiện trình BGH phê duyệt hàng tháng.
- Nắm vững và hiểu tính cách, nhân cách của từng học sinh, ý thức đạo đức học sinh, nắm bắt được đầy đủ tâm tư nguyện vọng của học sinh. Biết động viên kịp thời từng hoàn cảnh cụ thể của các em học sinh, xem những khuyết điểm của các em vi phạm, là một phần trách nhiệm của mình..  
- Khi xử lý tình huống phải có lòng kiên trì, cần có sự nghiêm khắc, lòng vị tha như một người cha, người mẹ đối với con cái; thông cảm chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự và cho các em những lời khuyên bảo chân tình; tạo được niềm tin động lực cho học sinh phấn đấu hoàn thiện. 
- Giáo viên chủ nhiệm cần chủ động tiếp xúc với gia đình học sinh đặc biệt là những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn. Qua đó tạo sự gần gũi, thân thiện, giúp học sinh tự tin và yên tâm hơn trong học tập và rèn luyện. Mỗi thầy, cô giáo chủ nhiệm phải thật sự là tấm gương sáng về tác phong, tư cách đạo đức; chuẩn mực trong trang phục, lời nói, cách ứng xử.
 - Kết hợp với giáo viên bộ môn, đội TNTP, các đoàn thể khác để nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em để có hướng xử lí và giúp đỡ những học sinh khó khăn, tạo điều kiện để các em hòa nhập với tập thể và phát huy năng lực của mình.
 - Trong các cuộc họp như: Họp hội đồng, họp tổ chuyên môn, giao ban GVCN cùng nhau trao đổi kinh nghiệm, rút ra được những phương pháp hay để nhân rộng.
+ Công tác chủ nhiệm ở trường THCS là rất quan trọng và rất cần thiết trong giai đoạn mới hiện nay. Để đạt hiệu quả cao trong công tác GDĐĐHS BGH nhà trường đã xây dựng đội ngũ GVCN, những người thầy mẫu mực có đạo đức trong sáng và có chuyên môn nghiệp vụ giỏi. Vì vậy, hàng năm nhà trường đã tổ chức tập huấn, bồi dưỡng các kỹ năng đó cho GVCN. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của BGH nhà trường nói riêng và ngành giáo dục đào tạo nói chung. 
+ BGH phải liên tục theo dõi, đánh giá c

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_giao_duc_dao_duc_h.doc