Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính trong giảng dạy môn Sinh học Lớp 11
Thực trạng về giáo dục giới tính, sinh sản sức khoẻ vị thành niên, tình dục an toàn trong nhà trường THPT:
- Việc đưa giáo dục giới tính vào trường học là điều đã được thừa nhận. Nhưng hầu hết các trường THPT đều lúng túng khi đưa giáo dục giới tính vào giảng dạy. Các trường đều chọn giải pháp là lồng ghép hoặc ngoại khoá. Các giáo viên thiếu kiến thức chuyên môn, thiếu kĩ năng giảng dạy về vấn đề nhạy cảm này. Cũng chưa có trường nào xây dựng được chuẩn kiến thức chung về vấn đề này khi dạy lồng ghép. Nếu dạy thì cũng chỉ thiên về lí thuyết còn thực hành thì bỏ ngỏ. Về giáo cụ trực quan là không có, giáo viên không được tập huấn kĩ càng để giảng dạy về vấn đề giới tính.
- Trách nhiệm này hiện nay có lẽ giáo viên sinh học được mong đợi nhiều nhất. Tuy nhiên dạy thế nào thì giáo viên phải tự biên tự diễn. Không có hướng dẫn cụ thể không ai kiểm tra, đánh giá công tác này. Hậu quả của việc này dẫn đến học sinh thu nhận một lượng kiến thức rời rạc, chắp vá. Bản thân các em đã nhận được kiến thức từ thông tin đại chúng, trong khi cần một người tổng hợp, đưa ra những kiến thức có tính cơ bản, tổng quát thì chúng ta chỉ có thể cung cấp cho các em kiến thức lồng ghép, không hệ thống, thiếu thực hành nặng về lý thuyết. Bởi vậy bài toán giáo dục giới tính trong trường THPT chưa có lời giải đáp thích đáng.
- Giáo dục giới tính là giáo dục kĩ năng sống. Khi giáo dục kĩ năng sống đòi hỏi có những kĩ năng riêng thì mới đạt hiệu quả cao. Hầu hết các giáo viên THPT hiện nay chưa được đào tạo kĩ năng này một cách chuyên nghiệp. Điều này dẫn tới hậu quả là giáo viên né tránh hoặc khi giảng dạy không mang lại hứng thú cho học sinh. Đặc biệt các giáo viên trẻ thường bỏ qua khi mà chưa có qui định nào bắt buộc phải dạy giáo dục giới tính trong từng bài học cụ thể.
- Các cấp lãnh đạo cũng chưa thật sát sao trong khâu quản lí theo dõi việc giáo dục giới tính trong quá trình giảng dạy. Chưa có tổng kết, đánh giá về hoạt động này trong nhà trường một cách chính xác, sát thực. Dạy lồng ghép chỉ là phương án tạm thời, rất cần thiết có những chương bài chi tiết, cụ thể, phù hợp về giáo dục giới tính. Rất cần thiết đào tạo một đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, được trang bị đầy đủ kĩ năng, kiến thức, nắm bắt được tâm lí học sinh để thực hiện các bài dạy giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn một cách hiệu quả.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO CAI TRUNG TÂM GDTX VĂN BÀN & SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT VÀI KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP KIẾN THỨC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC LỚP 11 Người thực hiện: Lê Thị Thu Hằng Đơn vị công tác: Trung tâm GDTX Văn Bàn. Năm học: 2013 - 2014 MỤC LỤC I. Lí do chọn đề tài ................................................................Trang 2 II. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp ....................Trang 4 III. Nội dung: Cơ sở lí luận ..................................................................Trang 7 Nội dung biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài..Trang 9 IV. Kết quả Trang 18 V. Kết luận.............................................................................Trang 18 VI. Tài liệu tham khảo...........................................................Trang 19 Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP KIẾN THỨC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC LỚP 11 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Theo qui luật tự nhiên, mọi sinh vật không ngừng phát triển và thay đổi. Con người cũng vậy. Kể từ khi chào đời, cơ thể ngày ngày lớn lên, trí tuệ ngày càng thêm sâu sắc. Có một khoảng thời gian đặc biệt mà các em có những bước phát triển nhảy vọt về cả thể chất lẫn tâm hồn, giai đoạn này kéo dài trong vài năm, biến các cô bé, cậu bé trở thành những cô gái, chàng trai. Đây là giai đoạn rất quan trọng đánh dấu sự hình thành giới tính và nhân cách của mỗi con người , và được gọi là “giai đoạn dậy thì ”. Sức khỏe sinh sản của các em lúc này đứng trước nhiều mối đe dọa nghiêm trọng . Nếu không được hướng dẫn, chăm sóc một cách đúng đắn, hai nguy cơ lớn nhất ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của các em là tình trạng có thai sớm và tình trạng nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó HIV/ AIDS là bệnh lây truyền qua đường tình dục rất nguy hiểm, nó không phải là bệnh riêng của người làm nghề mại dâm hay tiêm chích ma túy, mà nó có thể gõ cửa từng nhà, nếu ta không biết cách đề phòng. Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản phải bắt đầu bằng giáo dục từ gia đình, vai trò của cha mẹ, truyền thống, đạo đức, luật pháp của quốc gia, sau đó là kiến thức cơ bản về cơ thể học, sinh lý học, các thông tin về tình dục và sinh sản cơ bản. Muốn thực hiện được điều đó thì việc phổ biến các kiến thức chuyên môn về cơ thể học, sinh lý học, tâm lý học và các quan điểm về đời sống tình dục phải được trình bày một cách công khai. Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản hiện nay đã trở thành một nhu cầu cấp bách của xã hội. Trong nhà trường giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản chưa được đưa vào dạy một cách công khai, có bài bản; mới chỉ dừng ở mức lồng ghép vào một số tiết của một số môn học, chỉ có tính cung cấp cho học sinh thông tin về dân số và sức khỏe sinh sản, các biện pháp sinh hoạt tình dục an toàn để tránh lây nhiễm HIV. Còn ngoài xã hội, trong các cơ sở tôn giáo, trong các câu lạc bộ hôn nhân và gia đình chỉ nói một cách mơ hồ chưa giám trình bày một rõ ràng khoa học đó không phải là giáo dục giới tính đích thực. Trong các môn học có thể nói sinh học là môn dễ lồng ghép những kiến thức cơ bản về việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản giúp các em có ý thức bảo vệ cơ thể, sống lành mạnh. Trong các năm học qua để giáo dục học sinh có thức bảo vệ sức khỏe tốt, trong các tiết dạy có kiến thức liên quan tôi đã chú ý lồng ghép vấn đề này vào trong bài dạy, tôi nhận thấy đã đạt được một số hiệu quả nhất định với hy vọng góp phần nâng cao được ý thức cho học sinh tự bảo vệ cơ thể mình từ đó có ý thức bảo vệ bản thân và gia đình thông qua môn học. Với mong muốn giúp học sinh tích cực và chủ động trong việc tiếp thu chủ đề này, để các em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc mắc của bản thân đồng thời có những hành trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân, tôi đã tìm hiểu thu thập thông tin, sử dụng một số phương pháp, phương tiện dạy học lồng ghép nhằm khai thác có hiệu quả nội dung giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh khi giảng dạy môn sinh lớp 11 Cơ bản. II . THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI: 1. Thực trạng về giáo dục giới tính, sinh sản sức khoẻ vị thành niên, tình dục an toàn trong nhà trường THPT: - Việc đưa giáo dục giới tính vào trường học là điều đã được thừa nhận. Nhưng hầu hết các trường THPT đều lúng túng khi đưa giáo dục giới tính vào giảng dạy. Các trường đều chọn giải pháp là lồng ghép hoặc ngoại khoá. Các giáo viên thiếu kiến thức chuyên môn, thiếu kĩ năng giảng dạy về vấn đề nhạy cảm này. Cũng chưa có trường nào xây dựng được chuẩn kiến thức chung về vấn đề này khi dạy lồng ghép. Nếu dạy thì cũng chỉ thiên về lí thuyết còn thực hành thì bỏ ngỏ. Về giáo cụ trực quan là không có, giáo viên không được tập huấn kĩ càng để giảng dạy về vấn đề giới tính. - Trách nhiệm này hiện nay có lẽ giáo viên sinh học được mong đợi nhiều nhất. Tuy nhiên dạy thế nào thì giáo viên phải tự biên tự diễn. Không có hướng dẫn cụ thể không ai kiểm tra, đánh giá công tác này. Hậu quả của việc này dẫn đến học sinh thu nhận một lượng kiến thức rời rạc, chắp vá. Bản thân các em đã nhận được kiến thức từ thông tin đại chúng, trong khi cần một người tổng hợp, đưa ra những kiến thức có tính cơ bản, tổng quát thì chúng ta chỉ có thể cung cấp cho các em kiến thức lồng ghép, không hệ thống, thiếu thực hành nặng về lý thuyết. Bởi vậy bài toán giáo dục giới tính trong trường THPT chưa có lời giải đáp thích đáng. - Giáo dục giới tính là giáo dục kĩ năng sống. Khi giáo dục kĩ năng sống đòi hỏi có những kĩ năng riêng thì mới đạt hiệu quả cao. Hầu hết các giáo viên THPT hiện nay chưa được đào tạo kĩ năng này một cách chuyên nghiệp. Điều này dẫn tới hậu quả là giáo viên né tránh hoặc khi giảng dạy không mang lại hứng thú cho học sinh. Đặc biệt các giáo viên trẻ thường bỏ qua khi mà chưa có qui định nào bắt buộc phải dạy giáo dục giới tính trong từng bài học cụ thể. - Các cấp lãnh đạo cũng chưa thật sát sao trong khâu quản lí theo dõi việc giáo dục giới tính trong quá trình giảng dạy. Chưa có tổng kết, đánh giá về hoạt động này trong nhà trường một cách chính xác, sát thực. Dạy lồng ghép chỉ là phương án tạm thời, rất cần thiết có những chương bài chi tiết, cụ thể, phù hợp về giáo dục giới tính. Rất cần thiết đào tạo một đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, được trang bị đầy đủ kĩ năng, kiến thức, nắm bắt được tâm lí học sinh để thực hiện các bài dạy giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn một cách hiệu quả. 2. Thực trạng về hiểu biết giới tính, sức khoẻ sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn của học sinh tại trung tâm GDTX huyện Văn Bàn: - Tháng 11 năm 2013 vừa qua Trung tâm GDTX Văn Bàn tổ chức cho 10 lớp thi tìm hiểu kiến thức sinh sản vị thành niên, cùng đồng hành với học sinh trong suốt cuộc thi với vai trò hỗ trợ kiến thức và là thành viên của ban giám khảo, tôi nhận thấy các em hầu như không được trang bị kiến thức về kĩ năng sống cũng như tình dục an toàn. Các tiểu phẩm tham gia thi đều kết thúc bằng việc thiếu hiểu biết về an toàn tình dục nên có thai ngoài ý muốn; khi có thai người mà các em cần đến để chia sẻ đầu tiên là bạn bè, chỉ có 1/ 10 tiểu phẩm là xuất hiện vai trò của giáo viên chủ nhiệm; 2/ 10 xuất hiện vai trò của mẹ nhưng chỉ là “la mắng”, từ thực tế này cho thấy vai trò giáo viên, gia đình trong việc giáo dục giới tính cho các em rất hạn chế, các em chưa tin tưởng để chia sẻ những vương mắc đầu đời về giới tính, an toàn tình dục. 3. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài: a. Thuận lợi: - So với các bộ môn khác môn sinh là bộ môn có nhiều kiến thức liên quan tới giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản. - Ứng dụng CNTT trong giảng dạy cho phép cặp nhật nhiều thông tin cũng như hình ảnh minh họa cho bài dạy. - Bản thân tôi là một giáo viên nữ, lớn tuổi, có gia đình nên việc giảng dạy kiến thức sinh sản dễ dàng tự nhiên, học sinh tin tưởng lắng nghe và tiếp thu khá hiệu quả. b. Khó khăn: - Hiện nay, trong chương trình đào tạo của Việt Nam, vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Chưa có môn giáo dục giới tính được đưa vào nội dung giảng dạy. Vấn đề này được lồng ghép vào một số nội dung của môt số bài trong môn sinh học, môn giáo dục công dân, môn địa lí. Tuy nhiên, những nội dung đó vẫn còn chung chung, chưa đáp ứng được nhu cầu hiểu biết và sự cần thiết phải nắm vững các kiến thức về giới tính của học sinh. - Thái độ của các em khi nói đến những vấn đề liên quan đến giới tính còn khá dè dặt, các em chưa hề mạnh dạn trong quá trình tìm hiểu hay tiếp thu những kiến thức đó. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên chuyên trách về những vấn đề này chưa trường nào có. Các hoạt động giáo dục của nhà trường chỉ dùng lại ở một số buổi nói chuyện, ngoại khóa về một số vấn đề sức khoẻ giới tính, phòng chống HIV/AIDS... Hầu hết các giáo viên giảng dạy các bộ môn khi đề cập đến việc dạy các kiến thức về giới tính cho học sinh còn cảm thấy ngượng, nên việc truyền đạt kiến thức cho học sinh còn có phần hạn chế. - Xã hội hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này nên hay không nên đưa chương trình giáo dục sức khoẻ giới tính vào chương trình giáo dục PTTH. Vấn đề lớn được đặt ra ở đây là làm thế nào để lấp lỗ hổng trong công tác giáo dục giới tính cho các em đang ở giai đoạn vị thành niên. Theo ý kiến của cá nhân tôi, việc cần thiết phải trang bị cho các em các kiến thức về vấn đề giới tính là không cần phải bàn cãi. Tuy nhiên, không nên quá tham lam để đưa quá nhiều nội dung giáo dục giới tính trong một tiết học, chỉ nên làm sao việc giáo dục giới tính diễn ra một cách nhẹ nhàng và đều đặn qua các tiết học. 4. Số liệu thống kê: Tiến hành khảo sát kiến thức cơ bản vê sức khỏe sinh sản vị thành niên trước khi thực hiện đề tài ở 4 lớp 11A (1, 2, 3,4) tại Trung tâm GDTX Văn Bàn với 10 câu hỏi sau: Câu 1: Vị thành niên gồm các giai đoạn nào sau đây: Từ khi sinh ra đến tuổi dây thì. 3 giai đoạn: từ 10 – 13 tuổi; từ 14 – 16 tuổi; từ 17 – 19 tuổi Cả 2 ý trên đều đúng. Câu 2: Giai đoạn từ 16 tuổi đến 19 tuổi cấu tạo sinh lí có đặc điểm: Cơ thể trưởng thành, con gái hầu hết có kinh, con trai “chín về sinh dục”. Lớn nhanh. Hình thành các đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp, có kinh (ở nữ), sinh tinh (ở nam). Câu 3: Nếu quan hệ tình dục có giao hợp ở tuổi vị thành niên sẽ: Không gây hậu quả vì cơ quan sinh dục chưa phát triển đầy đủ. Có thai vì ở nữ trứng đã chín và rụng; ở nam đã hình thành tinh trùng. Cả 2 ý trên đều đúng. Câu 4: Tình yêu là gì? Là tình bạn thân thiết giữa một người nam và một người nữ. Là tình thương mến sâu sắc, sự hòa hợp giữa hai người khác giới. Là tình cảm giữa hai người không phân biệt giới tính. Câu 5: Điểm khác biệt giữa tình bạn cùng giới và khác giới là: Tình bạn giữa bạn nam và bạn nữ. Có sự chân thành tin cậy, đồng cảm sâu sắc. Có một khoảng cách tế nhị, không dễ biểu lộ thân mật gần gũi, Câu 6: Thế nào là tình dục an toàn? Thỏa mãn nhu cầu sinh lý. b. Đảm bảo không nhiễm các bệnh lây lan qua đường tình dục, không gây tổn thương cơ quan sinh dục. c. Cả hai đều đúng. Câu 7: Chu kỳ kinh nguyệt của một người phụ nữ: Thay đổi từ 21 đến 35 ngày. Chính xác 28 ngày. Có một chu kỳ. Câu 8: Bạn hãy cho biết, HIV không lây qua con đường nào sau đây? Đường tình dục. Giao tiếp thông thường ( ôm hôn, bắt tay). c. Lây từ mẹ nhiễm HIV sang con. Câu 9: Bạn hãy cho biết, ở nước ta hiện nay tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất nằm trong độ tuổi nào? Dưới 20 tuổi. Từ 20- 29 tuổi. Từ 30- 39 tuổi Câu 10: Tác hại của việc mang thai ở tuổi vị thành niên: Ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm sinh li Ảnh hưởng tới kinh tế xã hội, tương lai của bản thân. Cả 2 ý trên đều đúng. Kết quả khảo sát: (tính theo tỷ lệ %) Câu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Đúng 38,2 43,1 39,3 11,6 29,1 39 47,7 88,7 72,8 59,4 Sai 61,8 56,9 60,7 88,4 70,9 61 52,2 11,3 27,2 40,6 III . NỘI DUNG ĐỀ TÀI: 1 . Cơ sở lí luận: 1.1 Những kiến thức cơ bản về giáo dục giới tính cần cung cấp cho học sinh ở trường THPT và Trung tâm GDTX: - Giáo dục những hiểu biết về tâm lý, sinh lý, vệ sinh tuổi dậy thì, những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hooc môn từ các tuyến sinh dục gây ra. - Giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình. - Hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm. - Giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh, biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở. - Giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói "không" trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục. 1.2 Một số bài dạy có thể lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính trong chương trình sinh học ở trường THPT và Trung tâm GDTX: Lớp 10 STT Chương, bài Kiến thức về giới tính 1 Bài 18. Chu kì tế bào và quá trình nguyên phân Sinh đôi cùng trứng 2 Bài 19. Giảm phân Quá trình hình thành trứng, tinh trùng Đa dạng di truyền người 3 Bài 30. Sự nhân lên của virut trong tế bào chủ HIV và bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục- Tình dục an toàn 4 Bài 32. Bệnh truyền nhiễm và miễn dịch Tình dục an toàn Lớp 11 STT Chương, bài Kiến thức về giới tính 1 Bài 38, 39. Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển ở động vật Dậy thì và các yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ sinh sản Hooc môn giới tính Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản 2 Bài 40. Thực hành Xem phim về sinh trưởng và phát triển ở động vật Xem phim về quá trình phát triển của thai nhi Quá trình thụ tinh 3 Bài 45. Sinh sản hữu tính ở động vật Thụ tinh 4 Bài 46. Cơ chế điều hoà sinh sản Hooc môn sinh sản- điều hoà sinh sản Phòng tránh thai Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh tinh và sinh trứng 5 Bài 47. Điều khiển sinh sản ở động vật và sinh đẻ có kế hoạch ở người Các biện pháp phòng tránh thai và dân số kế hoạch hoá Lớp 12 STT Chương, bài Kiến thức về giới tính 1 Chương I. Cơ chế di truyền và biến dị Các bệnh di truyền 2 Chương II. Tính qui luật di truyền Sự di truyền một số tính trạng ở người 3 Chương III. Di truyền học quần thể Giao phối cận huyết và luật hôn nhân gia đình 4 Chương V. Di truyền học người Di truyền học người 5 Phần VI. Tiến hoá Bảo vệ vốn gen loài người 1.3 Phương pháp tổ chức dạy học: Giáo dục giới tính là vấn đề nhạy cảm, đòi hỏi sự khéo léo của người giáo viên. Một số yêu cầu cần đạt được trong dạy học: - Nội dung kiến thức khoa học chính xác, phù hợp với lứa tuổi, không né tránh gây những hiểu biết sai lầm của học sinh. - Phương pháp dạy học đa dạng, sinh động, lôi cuốn. - Khuyến khích việc tự tìm hiểu, nghiên cứu của học sinh. - Kích thích tối đa tính tích cực, bạo dạn nhưng nghiêm túc của học sinh. - Giáo viên sử dụng thuật ngữ chính xác nhưng khéo léo làm giảm tính căng thẳng trong tiết học. - Kết hợp giữa kiến thức khoa học với kiến thức xã hội, tình yêu, hôn nhân và gia đình. 2 . Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: Bài 38: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SINH TRUỞNG VÀ PHÁT TRIỂN Ở ĐỘNG VẬT I. Kiến thức giáo dục giới tính: - Thế nào là giai đoạn dậy thì. - Những thay đổi về cấu tạo cơ thể, tâm sinh lí ở giai đoạn dậy thì? Nguyên nhân của sự thay đổi này. II. Vận dụng vào tiết dạy: Hoạt động 1: Tìm hiểu ảnh hưởng của các hoocmôn sinh trưởng và phát triển ở động vật có xương sống. Hoạt động của giáo viên, học sinh Nội dung kiến thức GV: - Tranh vẽ H 38.1 - Sử dụng phiếu học tập. HS: Các nhóm thảo luận và phát biểu vai trò của các hoocmon - Nhóm 1: Hooc môn sinh trưởng - Nhóm 2: Tirôxin - Nhóm 3: Ơstrogen - Nhóm 4: Testosteron GV: Thế nào là dậy thì? Tuổi dậy thì là mốc đánh dấu sự trưởng thành về mặt sinh học của cơ thể. Chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn đầu từ 10 – 13 tuổi; giai đoạn giữa từ 14 – 16 tuổi; giai đoạn cuối từ 17 – 19 tuổi. GV: Tuổi dậy thì trung bình của người Việt Nam? Đối với người Việt Nam, trẻ em nữ dậy thì hoàn toàn vào khoảng 12 -14 tuổi, đánh dấu bằng lần có kinh nguyệt đầu tiên; trẻ em nam dậy thì hoàn toàn vào khoảng 14 -16 tuổi đánh dấu bằng lần xuất tinh không chủ định đầu tiên. GV: Những thay đổi về cấu tạo giải phẫu? Ở tuổi dậy thì, dưới tác dụng của tuyến yên và tuyến sinh dục, cơ thể diễn ra hàng loạt những biến đổi về hình thể, về sinh lí và tâm lí. Các cơ quan sinh dục ngoài phát triển, kích thích cơ thể tăng nhanh, trung bình mỗi trung bình mỗi năm chiều cao tăng thêm 4 - 8 cm, khối lượng cơ thể tăng thêm 4 - 8 kg. Hệ cơ cũng phát triển mạnh nhưng tốc độ chậm hơn so với hệ xương, làm cho trẻ em thường gầy, cao, chân tay lèo khèo, động tác vụng về thiếu chính xác. Có một số trường hợp, khối lượng cơ thể tăng rất nhanh và béo bệu. Hệ mao mạch dưới da phát triển làm cho da trở nên hồng hào hơn, nhất là các em nữ, lông mọc ở mu và nách, tuyến mồ hôi và tuyến nhờn phát triển mạnh làm cho lông, tóc được mượt mà. Nhiều khi tuyến nhờn không thải ra ngoài kịp, ứ đặc lại tạo thành trứng cá, nhất là ở trẻ nam. GV: Những thay đổi trong cấu tạo cơ quan sinh dục của nam? Ở nam, da bìu bắt đầu thẫm màu và nhăn lại, tinh hoàn to lên, các ống sinh tăng kích thước và bắt đầu sinh sản tinh trùng gây xuất tinh. Ở giai đoạn đầu chất lượng tinh trùng còn kém nên khả năng thụ thai không cao và nếu có thụ thai thì chất lượng thai chưa tốt. Cơ phát triển mạnh, vai rộng, chậu hông hẹp, tầm vóc cao to, thanh quản nở rộng làm cho giọng nói trở nên vang và trầm. GV: Những thay đổi trong cấu tạo cơ quan sinh dục của nữ? Ở nữ, biến đổi căn bản là sự phát triển của tử cung và 2 buồng trứng, các nang trứng phát triển mạnh và hình thành các trứng chín và rụng gây hiện tượng kinh nguyệt. Trong thời gian đầu, chu kì kinh nguyệt không đều và độ dài của chu kỳ, về số ngày hành kinh và lượng máu chảy. Hiện tượng không đều trong chu kỳ kinh nguyệt thường kéo dài khoảng một năm nên các em khó tính chính xác ngày rụng trứng để dự đoán khả năng có thể thụ thai. Vú và mông to lên, xương chậu phát triển theo chiều rộng, mô mỡ dưới da phát triển và dày tạo nên dáng mềm mại. Thanh quản phát triển kiểu nữ giới làm cho giọng thanh và cao. GV: Những thay đổi về tâm lý? Tình trạng không cân xứng trong quá trình phát triển của hệ tim mạch đã ảnh hưởng đến sự tuần hoàn não, có thể gây ra thiểu năng tuần hoàn não nhất thời nên thường kém tập trung, kém nhạy cảm và trí nhớ chưa tốt. Hoạt động thần kinh cũng có sự thiếu cân xứng, quá trình hưng phấn thường mạnh hơn quá trình ức chế nên trẻ em thường nóng tính khả năng kềm chế kém, phản ứng thường bộp chộp, thiếu chính xác, cảm xúc thường thay đổi đột ngột. Xuất hiện trạng thái mơ mộng và sự quan tâm đến bạn bè khác giới nảy sinh những suy nghĩ về giới tính, về quan hệ tình dục. Các em có thể dễ bị kích thích về quan hệ nam, nữ có tâm lý “muốn làm người lớn”, thích sống độc lập. Bởi vậy, người lớn thường có ấn tượng là các em bướng bỉnh và không biết vâng lời GV: Nguyên nhân những thay đổi ở giai đoạn này? Do các hoocmon sinh dục, các hoocmon này có tác dụng kích thích sự phát triển giới tính ở thai nhi. Ở giai đoạn trước tuổi dậy thì, hàm lượng các hoocmon này còn thấp, nhưng đến tuổi dậy thì hàm lượng tăng cao kích thích sự chuyển hóa và hoàn thiện của các tế bào sinh dục, làm phát triển các đặc điểm sinh dục phụ. - Không nên quá lo lắng với những thay đổi của cơ thể ở tuổi dậy thì. - Có ý thức giữ gìn, vệ sinh thân thể nhất là các em nữ. - Lưu ý trong các mối quan hệ ở gia đình, nhà trường, xã hội; đặc biệt là với bạn khác giới. - Tình dục an toàn. Bài 39: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SINH TRUỞNG VÀ PHÁT TRIỂN Ở ĐỘNG VẬT( Tiếp theo) I. Kiến thức giáo dục giới tính: - Ảnh hưởng của thức ăn , một số chất độc hại đối với sức khỏe của tuổi dậy thì. - Một số biện pháp cải thiện chất lượng dân số. II. Vận dụng vào tiết
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_kinh_nghiem_long_ghep_kien_thu.doc
- ĐƠN VÀ BÁO CÁO TOM TĂT.doc