Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu Lớp 4

Ở bậc học tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong số những môn học có vị trí rất quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường. Kỹ năng sử dụng tiếng Việt là nền tảng hình thành khả năng giao tiếp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, trong môi trường hoạt động lứa tuổi, đồng thời nó là cơ sở để phát triển tư duy cho học sinh để tiếp thu các môn học khác.

Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.

Khi chưa đến trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình.

Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.

Nhờ có ngôn ngữ con người có khả năng tư duy. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng  mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.

doc 24 trang Mai Loan 02/11/2023 2827
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ	1
A. Lý do chọn đề tài	1
1. Cơ sở lý luận	1
2. Cơ sở thực tiễn	2
B. Nhiệm vụ nghiên cứu.	2
C. Mục đích nghiên cứu.	3
D. Phương pháp nghiên cứu.	3
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ	4
A. Thực trạng thực tế việc dạy - học các dạng bài tập “Luyện từ và câu”.	4
I. Thuận lợi	4
1. Nội dung chương trình sách giáo khoa.	4
2. Dạy và học của giáo viên - học sinh.	4
II. Khó khăn	4
1. Đối với chương trình sách giáo khoa	4
2. Đối với giáo viên	4
3. Đối với học sinh.	5
4. Sơ lược một số dạng bài tập Luyện từ và câu điển hình.	5
B. Đề ra các biện pháp nghiên cứu, áp dụng phương pháp tổ chức dạy các 
 dạng bài tập “ Luyện từ và câu”.	6
I. Biện pháp 1: Củng cố, nâng cao kiến thức kỹ năng làm các bài tập luyện 
 từ và câu.	6
II. Biện pháp 2: Tổ chức dạy cho học sinh làm bài tập luyện từ và câu.	7
III. Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi học tập để giúp học sinh làm các bài tập Luyện từ và câu	14
C. Kết quả nghiên cứu đạt được.	15
D. Bài học kinh nghiệm.	16
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ	18
I. Những hạn chế	18
II. Khuyến nghị.	18
TÀI LIỆU THAM KHẢO	20
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
A.Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận
Ở bậc học tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong số những môn học có vị trí rất quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường. Kỹ năng sử dụng tiếng Việt là nền tảng hình thành khả năng giao tiếp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, trong môi trường hoạt động lứa tuổi, đồng thời nó là cơ sở để phát triển tư duy cho học sinh để tiếp thu các môn học khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.
Khi chưa đến trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.
Nhờ có ngôn ngữ con người có khả năng tư duy. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.
Vì vậy, với một số kinh nghiệm được đúc rút qua những năm giảng dạy tại trường, tôi đề xuất sáng kiến kinh nghiệm về “Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu - Lớp 4” hy vọng góp phần tích cực cho việc nghiên cứu và giảng dạy tại nhà trường.
2. Cơ sở thực tiễn
* Chương trình phân môn Luyện từ và câu - Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4:
- Mở rộng hệ thống hóa vốn từ (19 tiết):
+ Các dạng bài tập: Tìm từ ngữ theo chủ điểm, nắm nghĩa, phân loại từ ngữ. Tìm hiểu nghĩa của thành ngữ, tục ngữ, luyện sử dụng từ ngữ. 
- Tiếng cấu tạo từ (5 tiết):
+ Các dạng bài tập: Nhận diện và phân tích cấu tạo của tiếng, từ. Phân loại từ theo cấu tạo, tìm từ theo kiểu cấu tạo, luyện sử dụng từ. 
- Từ loại (9 tiết):
+ Các dạng bài tập: Nhận diện từ theo loại, luyện viết danh từ riêng, tìm và phân loại từ theo từ loại, luyện sử dụng từ. 
- Câu (26 tiết):
+ Các dạng bài tập: Nhận dạng kiểu câu, phân tích cấu tạo câu, đặt câu theo mẫu, luyện sử dụng câu trong các tình huống khác nhau. 
- Dấu câu (4 tiết):
+ Các dạng bài tập: Hiểu chức năng của dấu câu, luyện sử dụng dấu câu: đặt dấu câu vào chỗ thích hợp; tập viết câu, đoạn có sử dụng dấu câu.
* Việc giảng dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 sao cho có hiệu quả đặt ra cho các giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế giảng dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Chương trình sách giáo khoa đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất đôi khi còn máy móc, chưa thật mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh khi làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên nói chung và bản thân tôi nói riêng.
Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu - Lớp 4”.
B. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tìm hiểu tình hình học phân môn luyện từ và câu thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này.
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4.
C. Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt và hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh một cách hiệu quả nhất.
D. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra tôi mạnh dạn nghiên cứu học hỏi tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau:
I. Phương pháp nghiên cứu.
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu).
2. Phương pháp nghiên cứu tổng hợp.
3. Phương pháp điều tra
4. Phương pháp thực nghiệm
5. Phương pháp đàm thoại
6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm
II. Tiến trình nghiên cứu
1. Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc gần gũi với học sinh và tìm hiểu tình trạng giải quyết làm các bài tập luyện từ và câu của giáo viên và học sinh lớp 4.
2. Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập có hiệu quả hơn.
3. Dạy thực nghiệm, áp dụng trên lớp đối chứng, phân tích các kết quả bằng số liệu thống kê.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. Thực trạng thực tế việc dạy - học các dạng bài tập “Luyện từ và câu”.
I. Thuận lợi
1. Nội dung chương trình sách giáo khoa.
Số tiết Luyện từ và câu của sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài.
2. Dạy và học của giáo viên - học sinh.
Phân môn Luyện từ và câu tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. 
II. Khó khăn
1. Đối với chương trình sách giáo khoa
Việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành.
2. Đối với giáo viên
Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học phân môn này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau:
- Phân môn Luyện từ và câu là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
- Một số ít giáo viên không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
- Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
- Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế.
3. Đối với học sinh.
Một số học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn Luyện từ và câu nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
Một số học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa khô vừa khó.
Một số học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.
Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
Thực tế cho thấy có những học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.
Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy...Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp .
Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau.
Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
Học sinh còn nhầm lẫn giữa từ láy và từ ghép ví dụ: Từ dẻo dai, chí khí một số em lại cho là từ láy nhưng thực tế nó là từ ghép bởi vì các tiếng trong từng từ có quan hệ với nhau về nghĩa, các từ này có hình thức âm thanh ngẫu nhiên giống từ láy nhưng không phải là từ láy.
Qua khảo sát tại lớp 4D do tôi giảng dạy, tôi thu được kết quả như sau:
Phân loại
Lớp
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
4D (58HS)
10
17
28
48.5
20
34.5
Từ bảng phân loại khảo sát trên cho thấy trình độ học sinh chưa hoàn thành còn nhiều, cần nhiều sự quan tâm giúp đỡ của thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy. 
Qua giảng dạy, tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía: Người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học.
4. Sơ lược một số dạng bài tập Luyện từ và câu điển hình.
+ Phân tích cấu tạo của tiếng.
+ Tìm các từ ngữ nói về chủ đề.
+ Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao.
+ Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp.
+ Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được
+ Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó.
+ Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn.
+ Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó.
+ Viết thêm trạng ngữ cho câu...
B. Đề ra các biện pháp nghiên cứu, áp dụng phương pháp tổ chức dạy các Dạng bài tập “ Luyện từ và câu”.
I. Biện pháp 1: Củng cố, nâng cao kiến thức kỹ năng làm các bài tập luyện từ và câu.
Với đặc trưng của môn Luyện từ và câu cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau.
1. Đọc thật kỹ đề bài.
2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm.
3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài.
4. Kiểm tra đánh giá.
Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Muốn học sinh làm bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh.
Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh.
Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung các chủ điểm mà phân môn Luyện từ và câu cần cung cấp.
- Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được:
- Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố hán việt; rèn luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành ngữ tục ngữ.
- Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từng học sinh được:
Tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong thơ, tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm hiểu được:
Có 2 cách để tạo từ phức:
1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép.
2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó là từ láy.
- Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về danh từ, động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý:
+ Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
+ Thêm vào các từ rất, quá, lắm...vào trước hoặc sau tính từ.
+ Tạo ra phép so sánh. 
Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp.
Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện:
1. Thái độ khen, chê.
2. Sự khẳng định, phủ định
3. Yêu cầu, mong muốn...
- Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao tiếp. Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự.
Câu hỏi:
1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được hỏi.
2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
Câu khiến:
1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự
2. Muốn cho lời yêu cầu, được đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp...
3. Có thể dùng câu hỏi, kiểu câu nếu yêu cầu đề nghị. 
II. Biện pháp 2: Tổ chức dạy cho học sinh làm bài tập luyện từ và câu.
Các kiểu hình thức và kĩ năng cần học trong phân môn Luyện từ và câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên. 
a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ.
Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
- Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp. 
Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ...
Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến đúng.
Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập. 
b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây.
	- Ngay
	- Thẳng
	- Thật
Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp tư duy để thu nạp rất nhiều từ, từ quá trình học sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật).
Từ
Từ láy
Từ ghép
Ngay
Ngay ngáy
Ngay thẳng, ngay ngắn...
Thẳng
Thẳng thắn
Ngay thẳng, thẳng tắp...
Thật
Thật thà
Sự thật, thẳng thật...
Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân.
* Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép:
Giáo viên chốt:
Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu. 
Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy.
Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:
+ Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa...
+ Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ...
c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ.
Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh.
Ví dụ 1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao?
Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung.
Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép suy luận để học sinh áp dụng vào bài của mình.
Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:
Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông
Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí
Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt
Nhà vua: Để làm gì ?
Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước.
Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp.
Lưu ý có 2 từ dùi từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta lấy cái đục là cái lỗ để nước đục chảy ra.
Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong đoạn văn sau:
Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên.
	Hoa cà phê thơm lắm em ơi
	Hoa cùng một điệu với hoa nhài
	Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.
	Như miệng em cười đâu đây thôi...
Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh
Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh; các em đã hiểu .
Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạch chân cụ thể: Hoà cà phê thơm như thế nào? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp tư duy):
	Thơm – lắm
	Trong – ngà
	Trắng – ngọc 
Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này.
d. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu.
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.
1. Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút e

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lam_t.doc