Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt bài văn miêu tả Lớp 4 (Phần miêu tả con vật)

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt bài văn miêu tả Lớp 4 (Phần miêu tả con vật)

 Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng các em rất ngại học phân môn Tập làm văn, nhất là khi làm bài văn viết. Bởi kỹ năng làm bài của các em còn hạn chế, chất lượng bài làm chưa cao. Cụ thể là các em chưa biết cách quan sát con vật để miêu tả. Nhiều em còn chưa hiểu quan sát là gì? Thường thì nhìn thấy cái gì các em nghĩ cái đó theo kiểu liệt kê, chứ không biết chắt lọc các chi tiết quan sát được. Mặt khác do vốn từ của các em chưa phong phú nên các em dùng từ chưa chính xác, sử dụng câu nhạt nhẽo, không chọn lọc. Cách diễn đạt ý của câu văn mang tính chất văn nói nên khi đọc gây cảm giác rườm rà, lủng củng, lộn xộn, Hầu hết các em chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, từ láy, nên bài văn của các em tuy đủ ý nhưng rất khô khan. Bên cạnh đó còn một số bài viết mắc nhiều lỗi chính tả. Có em viết hết cả bài văn mà không có lấy một dấu chấm, một lần xuống dòng. Có em lại chấm phẩy một cách tùy tiện.

 Nói tóm lại, khi viết một bài văn miêu tả nói chung và tả con vật nói riêng, học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Đứng trước một thực trạng như vậy thì bất cứ người giáo viên nào cũng phải băn khoăn lo lắng.

Năm học 2017 – 2018, tôi chủ nhiệm lớp 4/4 với 34 học sinh trong đó có 17 em nữ, lớp có vài em tiếp thu chậm về văn miêu tả. Khi dạy đến dạng bài văn miêu tả tôi cố gắng cho các em làm bài vào tiết củng cố để nắm bắt thêm tình hình viết bài văn miêu tả của học sinh lớp mình như thế nào.

 

doc 19 trang hoathepmc36 01/03/2022 19956
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt bài văn miêu tả Lớp 4 (Phần miêu tả con vật)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
 Môn Tiếng Việt chương trình Tiểu học mới nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe- nói- đọc- viết) để học tập, giao tiếp và giúp học sinh có cơ sở tiếp thu kiến thức ở các lớp trên.
 Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành từ các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Đồng thời, nó còn gắn bó mật thiết với tất cả các môn học khác trong chương trình Tiểu học và thể hiện được đậm nét cá nhân. Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới nhằm rèn luyện cho học sinh kĩ năng sản sinh văn bản dưới cả hai hình thức nói, viết về một nội dung nào đó hay một đề tài cụ thể. Điều này đòi hỏi giáo viên giảng dạy phải vận dụng các phương pháp và cách tổ chức linh hoạt để mỗi tiết dạy tập làm văn đều đạt được hiệu quả mong muốn.
 Văn miêu tả là kim chỉ nam xuyên suốt phân môn Tập làm văn ở bậc Tiểu học nói chung và Tập làm văn lớp 4 nói riêng. Văn miêu tả là loại văn căn cứ vào những điều quan sát, cảm nhận được về đối tượng (cây cối, đồ vật, loài vật, con người) xung quanh ta sinh động, tươi đẹp đã để lại cho chúng ta ấn tượng. Những ấn tượng đó được chuyển từ trực quan sinh động - hình ảnh hội họa sang tư duy trừu tượng - ngôn ngữ văn chương. Muốn vẽ ra những hình ảnh chân thật của đối tượng đó, trình bày theo bố cục hợp lí và diễn đạt bằng ngôn ngữ lời văn sinh động giàu hình ảnh, khiến cho người đọc, người nghe cùng cảm thấy, cùng nhận thấy chúng ta phải dùng văn miêu tảû. Học sinh Tiểu học rất thích vẽ nhưng vấn đề chuyển từ hình vẽ sang ngôn ngữ miêu tả đối với các em là điều không thể dễ dàng. Vì thế các em rất ngại khi làm văn miêu tả và thường mắc phải khuyết điểm: “Công thức, khuôn sáo, máy móc, thiếu chân thực” bài văn của các em có những biểu hiện vai mượn ý của người khác, học thuộc văn mẫu khi làm bài sao chép ra. Bài văn hời hợt không có sắc thái riêng nào của đối tượng miêu tả, thiếu sự cảm nhận, sáng tạo của học sinh do không quan sát cụ thể đối tượng miêu tả, không biết cách hồi tưởng nhớ lại kinh nghiệm sống của bản thân trong khi miêu tả. Là giáo viên Tiểu học tôi luôn tự hỏi giáo viên phải làm gì để học sinh yêu thích những con chữ, những câu văn tạo nên một bài văn miêu tả cũng như các em yêu thích màu vẽ để tạo nên một bức tranh trên giấy. Với tôi văn chương là chìa khóa để mở ra cho học sinh một bầu trời tri thức, là con đường đi tới những môn khoa học khác. Thế nên cần tạo cho học sinh tình yêu văn chương, hướng cho học sinh tạo ra những sản phẩm cơ bản ban đầu của mình - những bài văn miêu tả tốt. Để có những bài văn miêu tả ấy giáo viên phải dạy như thế nào để học sinh làm một bài văn cảm thấy dễ dàng, khơi gợi lòng yêu thích và say mê làm văn miêu tả? Theo chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 4, văn miêu tả chiếm gần một nửa số tiết Tập làm văn của cả năm học. Bao gồm các kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. Như vậy, việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh làm được những bài văn hay, câu văn súc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc chân thật, sinh động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ sở học tốt tất cả các kiểu bài miêu tả đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học: Lấy học sinh làm trung tâm, còn thầy chỉ là người tổ chức hướng dẫn, trò tự khám phá và lĩnh hội tri thức. Có như vậy thì mới nâng cao được hiệu quả và chất lượng giảng dạy.
 Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học sinh còn lúng túng, vụng về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả nói chung và tả con vật nói riêng. Số học sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo thật là ít. Hầu hết khi miêu tả các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu văn thì rườm rà, diễn đạt ý thì lủng củng Điều này đã làm tôi trăn trở và lo lắng.
 Xuất phát từ cơ sở mang tính lý luận và thực tiễn như trên, nhằm đáp ứng nhu cầu: Làm thế nào để các em viết được những câu văn, đoạn văn, bài văn hay. Giúp các em tự tin, phấn khởi và yêu thích phân môn Tập làm văn. Tôi quyết định chọn đề tài: “Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt bài văn miêu tả lớp 4”
(phần miêu tả con vật). Qua đó giúp giáo viên tự điều chỉnh phương pháp dạy học để tiết học diễn ra nhẹ nhàng và có hiệu quả cao.
II. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI:
- Giúp học sinh lớp 4 có kỹ năng làm bài văn miêu tả con vật hay, sinh động và sáng tạo.
- Giúp bản thân tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
III. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI:
Đề tài nghiên cứu dựa vào vốn hiểu biết của mình qua nhiều năm giảng dạy. Bên cạnh đó còn học hỏi thêm những kinh nghiệm, đọc thêm sách báo, chọn lọc những giải pháp thực thi hơn để khớp với xu hướng giáo dục hiện nay nhằm truyền thụ đến các em bằng con đường hiệu quả nhất, giúp các em khắc phục dần những khó khăn trong môn học, đem lại kết quả cao hơn.
IV. PHẠM VI ĐỀ TÀI:
 Việc nâng cao chất lượng dạy và học Tập làm văn miêu tả lớp 4 có nhiều vấn đề liên quan như: cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, năng khiếu làm văn của học sinh,...Riêng trong phần giảng dạy của giáo viên cũng có nhiều điều: dạy lập dàn ý, dạy làm văn nói, trả bài viết,...Đề tài này chủ yếu đi sâu vào những giải pháp giúp học sinh lớp 4 nắm vững và thực hiện tốt về quan sát, về chọn lọc ý, về lập dàn ý, về viết bài văn miêu tả con vật gần gũi với các em mà thôi.
PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI:
 Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng các em rất ngại học phân môn Tập làm văn, nhất là khi làm bài văn viết. Bởi kỹ năng làm bài của các em còn hạn chế, chất lượng bài làm chưa cao. Cụ thể là các em chưa biết cách quan sát con vật để miêu tả. Nhiều em còn chưa hiểu quan sát là gì? Thường thì nhìn thấy cái gì các em nghĩ cái đó theo kiểu liệt kê, chứ không biết chắt lọc các chi tiết quan sát được. Mặt khác do vốn từ của các em chưa phong phú nên các em dùng từ chưa chính xác, sử dụng câu nhạt nhẽo, không chọn lọc. Cách diễn đạt ý của câu văn mang tính chất văn nói nên khi đọc gây cảm giác rườm rà, lủng củng, lộn xộn, Hầu hết các em chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, từ láy, nên bài văn của các em tuy đủ ý nhưng rất khô khan. Bên cạnh đó còn một số bài viết mắc nhiều lỗi chính tả. Có em viết hết cả bài văn mà không có lấy một dấu chấm, một lần xuống dòng. Có em lại chấm phẩy một cách tùy tiện.
 Nói tóm lại, khi viết một bài văn miêu tả nói chung và tả con vật nói riêng, học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Đứng trước một thực trạng như vậy thì bất cứ người giáo viên nào cũng phải băn khoăn lo lắng.
Năm học 2017 – 2018, tôi chủ nhiệm lớp 4/4 với 34 học sinh trong đó có 17 em nữ, lớp có vài em tiếp thu chậm về văn miêu tả. Khi dạy đến dạng bài văn miêu tả tôi cố gắng cho các em làm bài vào tiết củng cố để nắm bắt thêm tình hình viết bài văn miêu tả của học sinh lớp mình như thế nào.
 Qua hai tuần thực nghiệm, tôi đã rút ra kết quả qua một đề kiểm tra như sau:
 Đề bài: Tả một con vật nuôi trong nhà mà em yêu thích. 
 Kết quả làm bài của các em thu được như sau:
Tổng số học sinh
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
34 học sinh
20 em = 58.8%
14 em = 41.2 %
 	- Các em học sinh hoàn thành thì bài viết đủ ba phần, các phần có đủ ý nhưng câu văn ngắn chưa có giàu hình ảnh nên bài văn ngắn chỉ từ 15 đến 20 câu. Còn học sinh chưa hoàn thành thì bài văn của các em ít ý, khô khan, tả theo kiểu liệt kê, còn mắc nhiều lỗi chính tả, chấm, phẩy tùy tiện nên nghĩa của câu văn không rõ. Có em làm lạc đề bài.
Qua kết quả trên, tôi nhận thấy là do những nguyên nhân:
- Học sinh chưa biết xác định kĩ đề bài.
- Khả năng quan sát của các em chưa thấu đáo, còn hời hợt.
- Các em không có kỹ năng lập dàn ý bài trước khi viết bài văn.
- Vốn từ miêu tả của các em còn ít. 
II. NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT:
 Từ thực trạng học sinh ở lớp và tìm ra được nguyên nhân, tôi cần giải quyết những vấn đề sau:
a/ Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài.
 	b/ Rèn kĩ năng quan sát.
 	c/ Hướng dẫn học sinh lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
 	d/ Dựng đoạn và viết bài văn miêu tả con vật.
 	e/ Rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật và tích lũy vốn từ ngữ thông qua các môn học khác.
 	f/ Rèn kỹ năng tự kiểm tra đánh giá khả năng của mình và của bạn.
	g/ Sử dụng các hình thức hoạt động của học sinh trong giờ học.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
 Để giúp học sinh viết được một bài văn miêu tả con vật hay, có tính sáng tạo, giàu hình ảnh thì trước hết giáo viên cần giúp các em hiểu rằng: tả con vật là dùng lời văn của mình giúp người đọc như thấy cụ thể trước mắt con vật đó hình dáng như thế nào? Đầu, mình, chân, đuôi ra sao? Có những hoạt động gì đặc biệt? 
 Vì vậy ngay sau khi học xong bài: “Thế nào là văn miêu tả?” tôi đã khắc sâu cho học sinh hiểu: Khi miêu tả các em không được đưa ra lời nhận xét chung chung như con này rất to, đầu của nó nhỏ, thân của nó dài mà phải làm cho người đọc thấy được con vật em tả có đặc điểm gì riêng biệt giúp người đọc phân biệt con đó với các con khác cùng loài. Để giúp học sinh làm được việc này tôi đã nghiên cứu và đưa ra các biện pháp như sau:
 Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài.
 	Đây là một việc làm rất quan trọng, bởi nó giúp học sinh định hướng được công việc mình sẽ làm: Đó là xác định được bài văn thuộc thể loại bài văn gì? Kiểu bài gì? Đối tượng miêu tả là gì?... Từ đó giúp các em không đi lạc yêu cầu của đề. Sau khi nêu xong đề bài, tôi ghi lên bảng rồi yêu cầu 2 học sinh đọc lại.
Ví dụ: Trong gia đình em có nuôi rất nhiều con vật. Em hãy tả lại một con vật đó.
 Tôi hướng dẫn các em như sau:
+ Thảo luận nhóm đôi trả lời câu hỏi:
- Đề bài thuộc thể loại văn gì? (miêu tả)
- Kiểu bài nào? (tả con vật)
- Đối tượng miêu tả là gì? (vật nuôi trong nhà)
- Kể tên các con vật nuôi trong nhà? (chó, mèo, gà, lợn,...)
+ Gọi học sinh trình bày kết quả thảo luận.
+ Cả lớp nhận xét.
 Sau khi học sinh trả lời xong, tôi chốt lại yêu cầu và dùng phấn màu gạch chân các từ ngữ quan trọng.
 * Giáo viên cũng cần phân biệt rõ cho học sinh nắm hai kiểu bài tả loài vật.
 + Tả một con vật. Ví dụ: Tả con gà trống - Tả con bò - Tả con chim...
 + Tả nhiều con vật. Ví dụ: Tả đàn gà - Tả đàn bò - Tả bầy chim...
 Tóm lại: Theo tôi nếu giáo viên cũng làm rõ yêu cầu như vậy thì chắc chắn sẽ không có một bài văn nào của học sinh bị lạc đề.
 Biện pháp 2: Rèn kĩ năng quan sát.
 Đây là biện pháp được xem là cơ bản nhất. Bởi kết quả của quan sát được thể hiện rõ trong từng bài làm của học sinh. Em nào quan sát tinh vi, thấu đáo thì em đó sẽ nhận ra được những nét riêng biệt, đặc sắc của con vật mình định tả để thể hiện trong bài viết. Còn em nào quan sát hời hợt, phiến diện thì bài viết của các em sẽ khô khan, nông cạn.
 Để giúp các em tìm ra được những nét riêng biệt, tiêu biểu cho từng con vật tôi sử dụng các thao tác rèn kỹ năng như sau:
 a. Quan sát con vật theo 1 trình tự hợp lý: 
Các em có thể quan sát theo các trình tự sau:
 - Quan sát hình dáng: tả bao quát trước rồi mới tả từng bộ phận.
 - Quan sát hoạt động và thói quen sinh hoạt của con vật (Có thể tả kết hợp với việc tả hình dáng cũng như môi trường mà con vật đang sống).
- Quan sát tính nết.
- Tình cảm giữa con vật và con người.
- Các mặt lợi hại của con vật.
Ví dụ: Quan sát con gà trống. Tôi hướng dẫn các em quan sát theo trình tự:
 + Quan sát bao quát: hình dáng, kích thước, màu sắc
 + Quan sát từng bộ phận: đầu, mình, chân, đuôi
 + Quan sát hoạt động và thói quen: gáy, ăn, tìm mồi
 b. Quan sát con vật bằng nhiều giác quan:
 Đây là thao tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định nhiều mặt. Thông thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát. Do đó, kết quả thu được thường chỉ là các nhận xét và cảm xúc gắn liền với thị giác. Xong tôi đã hướng dẫn các em biết cách phối hợp nhịp nhàng các giác quan để quan sát.
 Ví dụ: Quan sát con mèo: Tôi hướng dẫn như sau:
 - Các em dùng mắt để quan sát xem hình dáng của nó như thế nào? Trông nó giống cái gì?
 - Em hãy dùng tay để sờ xem bộ lông của mèo như thế nào?
 - Em hãy dùng mắt và tai để quan sát và lắng nghe xem hoạt động đặc biệt của mèo.
 Với mỗi bộ phận của con vật tôi đều có một câu hỏi gợi ý và giúp các em sử dụng từ ngữ để ghi lại những gì quan sát được. Nếu giáo viên làm tốt thao tác này là đã góp phần vào sự thành công của việc rèn kỹ năng quan sát con vật cho học sinh.
 c. Quan sát để phát hiện, tìm ra những điểm riêng của con vật:
 Để giúp người đọc phân biệt được con vật này với con vật khác và nhất là với hai con cùng một loài, tôi đã định hướng cho các em tránh lối liệt kê tất cả các bộ phận như một người thợ lắp ráp một đồ vật nào đó, mà cần phải nhằm vào những chi tiết, bộ phận có thể khắc họa hình ảnh con vật ấy một cách rõ rệt, gợi cho em nhiều ấn tượng nhất. Tập trung miêu tả những nét độc đáo và làm hiện lên những nét riêng của con vật đó khiến nó không lẫn với các con vật khác.
Ví dụ: Quan sát con mèo, học sinh cần quan sát mắt, mũi, ria, tư thế bắt chuột,để tìm ra các nét riêng của mèo.
 Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
 Để viết được một bài văn hay, thì học sinh cần phải có thói quen lập dàn bài chi tiết. Vì vậy sau khi hướng dẫn học sinh kỹ năng quan sát, tôi giúp các em có thói quen chọn lọc các chi tiết quan sát được và sắp xếp chúng thành một dàn bài chi tiết. Để giúp các em thực hiện tốt kỹ năng này, tôi hướng dẫn theo hai bước sau:
a. Kỹ năng chọn lọc chi tiết:
Kết quả các em quan sát được bao gồm cả phần thô lẫn phần tinh. Vậy làm thế nào để giúp các em sàng lọc bỏ phần thô, chỉ giữ lại phần tinh. Để giúp các em làm công việc đó, tôi yêu cầu các em xác định rõ yêu cầu của đề bài và đặc điểm đối tượng miêu tả để lược bỏ chi tiết không cần thiết. 
Ví dụ: Quan sát con gà trống. Khi quan sát hình dáng học sinh nêu chiều dài, chiều cao của con gà trống, to cỡ cái . Giáo viên nên hướng các em nêu các chi tiết như: Chú có thân hình to lớn, dáng dấp vạm vỡ, cao khoảng ba gang tay em. 
 b. Kỹ năng sắp xếp ý:
 Sau khi chọn lọc được các chi tiết, nếu các em không biết cách sắp xếp ý thì bài văn của các em sẽ lủng củng, lộn xộn. Để giúp các em làm tốt kỹ năng này tôi luôn lưu ý học sinh: một bài văn cho dù dài hay ngắn thì luôn đủ ba phần:
 + Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả. (bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp)
 + Thân bài: Miêu tả con vật:
- Tả bao quát: (hình dáng, kích thước, màu sắc)
- Tả chi tiết: (từng bộ phận của con vật)
- Tả hoạt động và thói quen.
- Ích lợi của con vật.
 + Kết bài: Nêu cảm nghĩ về con vật đó (theo cách mở rộng hoặc không mở rộng.)
 Tóm lại: Cho dù làm bài tại lớp hay về nhà, tôi luôn nhắc nhở các em phải lập nhanh một dàn bài.
 Ví dụ: Lập dàn ý tả con mèo:
 Tôi tổ chức cho các em quan sát con mèo trước ở nhà, trên lớp tôi treo một số tranh ảnh con mèo khác nhau để các em tiện nhớ lại. Sau đó tổ chức cho các em trình bày dàn ý theo phương pháp toa xe lửa.
Thân bài
Mở
bài
Thân bài
Thân bài
Thân bài
Thân bài
Kết bài
Cảm nghĩ của em
Hoạt động, thói quen
Chân, đuôi
Đầu, tai, mắt, ria
Bộ lông
Hình dáng
Con mèo
Sau khi học sinh trình bày xong, tôi đặt câu hỏi gợi ý để các em trả lời từng nội dung. Từ cơ sở đó các em sẽ dễ dàng viết thành một bài văn tả con mèo có nội dung.
 * Hoặc các em có thể lập dàn ý theo cách sau: 
+ Mở bài: Giới thiệu con mèo:
- Nhà em có nuôi một chú mèo đã được năm tháng tuổi.
+ Thân bài:
- Tả ngoại hình: 
+ Bộ lông màu xám có sắc vằn vàng.
+ Cái đầu tròn tròn.
+ Hai tai như hình tam giác, dựng đứng, rất thính nhạy.
+ Đôi mắt sáng long lanh, ban đêm có màu xanh.
+ Bộ ria vểnh lên có vẻ oai vệ.
+ Bốn chân thon nhỏ, bước đi rất êm.
+ Cái đuôi dài thướt tha, duyên dáng.
- Tả hoạt động:
 + Bắt chuột: ngồi thu mình mắt lim dim để rình chuột, chạy nhanh để vồ chuột.
 + Hay ra sân tắm nắng sáng.
 + Kết bài: Tình cảm của em đối với con mèo.
- Con mèo đã giúp cho nhà em không còn một bóng chuột nào nữa.
- Chăm sóc, chơi đùa, cho nó ăn và xem con mèo như một người bạn thân.
 Làm nhiều lần như vậy tôi đã xác định cho các em một thói quen tốt. Bài văn của các em sẽ đủ và nhiều ý hơn. Bên cạnh đó tôi còn cung cấp cho các em những từ ngữ miêu tả về hình dáng và hoạt động của các con vật. Nhằm giúp cho các em yếu có vốn từ miêu tả.
 Biện pháp 4: Dựng đoạn và viết bài văn miêu tả con vật.
 Đây là bước cuối cùng để hoàn chỉnh đoạn văn, bài văn. Từ các ý đã lập, các em sử dụng ngôn ngữ, phát triển ý để dựng thành đoạn và bài văn. Tôi hướng dẫn các em viết bài văn thành nhiều đoạn, như vậy mỗi đoạn văn miêu tả có một nét nhất định.
Ví dụ: Khi tả con mèo:
 Đoạn 1: Giới thiệu con mèo.
 Đoạn 2: Tả hình dáng (bộ lông, cái đầu, hai cái tai, đôi mắt, bộ ria, bốn chân, cái đuôi).
 Đoạn 3: Tả hoạt động (bắt chuột, đùa giỡn).
 Đoạn 4: Tình cảm của em đối với con mèo.
 Ở bước này, tôi lưu ý các em: Viết đoạn văn phải đảm bảo sự liên kết giữa các câu trong đoạn để cùng tả một bộ phận. Các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh họa, cụ thể hóa ý chính.
Ví dụ: Đoạn tả ngoại hình con mèo.
 Chà, chú có bộ lông mới đẹp làm sao! Màu lông xam xám có sắc vằn vàng xen lẫn. Chú có cái đầu tròn tròn, hai tai dong dỏng, dựng đứng rất thính nhạy. Đôi mắt mèo hiền lành, ban đêm đôi mắt ấy sáng lên có màu xanh long lanh giúp mèo có thể nhìn rõ mọi vật. Bộ ria mép vểnh lên có vẻ oai vệ lắm. Bốn chân thì thon thon, bước đi một cách nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất. Cái đuôi dài trông thướt tha và duyên dáng. Chú mèo trông thật đáng yêu!
 Về mặt hình thức trình bày, khi viết hết mỗi đoạn văn các em cần chấm xuống dòng. Các đoạn văn trong một bài cũng phải có một sự liên kết, được bố cục chặt chẽ theo ba phần (mở bài – thân bài – kết bài). Kỹ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh.
Lưu ý: + Không cần thiết phải tả đủ các bộ phận mà chỉ cần tả những bộ phận toát lên dáng vẻ riêng biệt của con vật cần tả.
 + Khi tả các bộ phận, học sinh có thể xen tả tính nết và thói quen sinh hoạt.
 + Không cần theo trình tự một cách máy móc (Đầu – mình - chân). Học sinh có thể tả trước và tả kĩ bộ phận nổi bật nhất của con vật (dành cho học sinh năng khiếu).
 Biện pháp 5: Rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật và tích lũy vốn từ ngữ thông qua các môn học khác.
 Như chúng ta đã biết, thường xuất hiện nhiều trong văn bản miêu tả loài vật là hai biện pháp tu từ “ nhân hóa và so sánh”. Nhờ những biện pháp tu từ này mà các con vật được tả trở nên có tình cảm hơn, cụ thể hơn và cũng vì thế mà chúng cũng trở nên riêng biệt hơn. Để đạt được điều đó thì buộc người viết phải sử dụng biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, từ láy,Khi tả con vật người giáo viên cần hướng cho các em những hình ảnh so sánh, nhân hóa. 
Ví dụ: Tả con gà.
 - Bộ lông: Màu vàng sậm xen lẫn xanh đen óng ánh như pha kim tuyến.
 - Cái đầu: Trên đầu chú đội một cái nón hình răng cưa giống như các dãy núi chập chùng ở miền sơn cước nhưng lại đỏ thẫm như màu hồng nhung.
 - Lông đuôi: Đuôi của chú mới đẹp làm sao, vừa dài vừa cong vút về sau như những cành liễu rũ ven hồ.
 - Hoạt động: Đối với bạn bè hàng xóm cùng giới với chú thì chú tỏ ra khắc khe, thậm chí nhiều lúc “mất lịch sự” nữa. Đối với những con gà trong nhà, hình như chú không ăn hiếp ai cả mà tỏ ra độ lượng bao dung.
Mặt khác, mỗi môn học đều có mục tiêu riêng. Song, ngoài

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_to.doc