Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin cho học sinh dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin cho học sinh dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn

I. Cơ sở lý luận của vấn đề

Tự tin là tin vào chính bản thân mình, tin vào chính giá trị, những phẩm chất tốt đẹp đang tồn tại bên trong con người mình, tin vào những thành công, những thành quả mà mình đã đạt được trong quá khứ để vững bước đón nhận những thử thách mới trong tương lai; tin vào tài năng của mình, những ước mơ tốt đẹp mà mình theo đuổi và tin rằng dù có phải thất bại đi chăng nữa, mình vẫn có thể thực hiện được nó ở những lần sau. Tự tin trái ngược với sự nhút nhát, rụt rè, thiếu niềm tin vào bản thân và lo sợ phải thất bại, không dám theo đuổi ước mơ. Sự tự tin trong cuộc sống có thể được biểu hiện ở những việc làm nhỏ nhất như tự tin thuyết trình bài học trước lớp, tự tin đóng góp phát biểu ý kiến của mình cho tập thể lớp; cho đến những việc làm lớn hơn như công bố phát minh của một nhà khoa học hay một nhà văn cho ra đời tác phẩm của mình trước công chúng, và còn rất nhiều biểu hiện của sự tự tin trong cuộc sống mà chúng ta không thể kể hết.

Mạnh dạn là không rụt rè, sợ sệt, dám làm những việc mà người khác thường e ngại. Có sự tự tin chúng ta sẽ mạnh dạn hơn trong mọi hoạt động. Sự tự tin và mạnh dạn có vai trò rất quan trọng đối với mỗi con người nói chung và học sinh nói riêng. Đối với cuộc sống của con người, sự tự tin, mạnh dạn giúp ta nhanh chóng thực hiện tốt những mong muốn của mình, có khả năng sống, làm việc, hoà nhập nhanh chóng với cộng đồng.

Tự tin là một đức tính chỉ có thể có được nhờ vào việc rèn luyện và học hỏi. Tự tin giúp cho con người cũng như học sinh vượt qua mọi khó khăn thử thách trong trường học và cuộc sống, có được điều này học sinh sẽ tin ở năng lực bản thân và luôn hy vọng được mục tiêu của mình, luôn thích thú thử nghiệm những điều mới mẻ và chính những trải nghiệm mới giúp các em học tập tốt hơn, đặc biệt là có những kinh nghiệm, những kỉ niệm khó quên sẽ giúp ích cho các em trong bước đường tương lai phía trước.

Tự tin cũng có nghĩa là học sinh thấy thoải mái hơn với chính mình và có nhiều điều thú vị muốn chia sẻ. Sự tự tin giúp các em tương tác với nhiều người xung quanh, với bạn bè và dễ dàng xây dựng được những mối quan hệ mới, điều này cực kì quan trọng trong thế giới hiện đại, khi mà tình bạn, sự hợp tác, gắn bó không chỉ bó gọn trong khuôn khổ một tỉnh hay một quốc gia. Tự tin sẽ giúp các em thành công trong mọi hoàn cảnh. Đó là một trong những kĩ năng sống rất cần thiết cho mỗi học sinh.

 

doc 26 trang hoathepmc36 01/03/2022 8994
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin cho học sinh dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC	1
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
 Đặt vấn đề
Nghề giáo là một nghề cao quý, bởi chúng ta là những người lái đò đưa các em đến bờ bến tương lai. Các em là mầm non của nước nhà cũng là những chủ nhân tương lai của đất nước. Bởi vậy, giáo dục đối với đất nước ta luôn được coi là quốc sách hàng đầu, giáo dục cung cấp tri thức nhằm phát huy năng lực, trí tuệ, phẩm chất, nhân cách của con người và để nền giáo dục của nước ta sánh vai được với các nước trong khu vực thì Bộ Giáo dục và Đào tạo đã không ngừng đổi mới về mọi mặt. Chính vì thế, việc dạy học cũng phải đổi mới, phải hiện đại hơn trước, phải chú trọng sự phát huy tính tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh trong học tập. Để thực hiện được vấn đề đó đòi hỏi ở mỗi học sinh phải có tính tự giác cao, đặc biệt phải có tính mạnh dạn để các em hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Ngạn ngữ có câu “mạnh dạn sẽ đến thành công cho bạn”. Quả đúng như thế, trong thực tế cuộc sống đa số những người có năng lực, mạnh dạn thì thường được nhiều kết quả tốt kể cả trong lĩnh vực kinh tế. Người có năng lực nếu không mạnh dạn thì không thể thực hiện thành công công việc vì sợ mình sẽ thất bại. Còn nếu người có năng lực kết hợp với tính mạnh dạn, dám nghĩ dám làm thì cơ hội thành công là rất lớn.
Nhiều năm nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chủ trương dạy kĩ năng sống và xem đây là một trong những tiêu chí đánh giá nội dung “Trường học thân thiện - học sinh tích cực”. Bản thân tôi là một giáo viên có nhiều năm công tác tại vùng khó khăn, được tiếp xúc với nhiều học sinh có hoàn cảnh khác nhau, phần lớn tôi nhận thấy hầu như các em ở vùng khó khăn, những em đồng bào dân tộc thiểu số đều có một điểm chung khác biệt hơn hẳn so với những em sống trong điều kiện thuận lợi là các em thiếu tính mạnh dạn, thiếu sự tự tin trong học tập, các hoạt động ngoài giờ lên lớp và trong cuộc sống.
Xuất phát từ những lí do đó tôi nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng tự tin, mạnh dạn cho học sinh là một việc làm rất quan trọng. Nhà trường sẽ là môi trường tốt cho các em hình thành và rèn luyện các kỹ năng đó, giúp các em độc lập hơn, từng bước tự tin trong học tập để trở thành con ngoan, trò giỏi, trở thành những người công dân tốt góp phần xây dựng, phát triển, bảo vệ đất nước. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy, cô giáo, đặc biệt là các thầy, cô giáo làm công tác chủ nhiệm lớp. Chính vì thế tôi thực hiện đề tài: “Một số giải pháp rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin cho học sinh dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn” hy vọng rằng những kinh nghiệm nhỏ này phần nào giúp thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp nâng cao hơn nữa hiệu quả dạy học, giáo dục học sinh.
Mục đích nghiên cứu
 Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và thực tiễn việc rèn luyện sự tự tin, mạnh dạn cho học sinh ở vùng khó khăn, học sinh đồng bào dân tộc thiểu số trong công tác giảng dạy và chủ nhiệm trong chương trình THCS. Qua đó, giúp giáo viên có được những kinh nghiệm rèn luyện học sinh trở nên nhanh nhẹn và mạnh dạn hơn trong mọi lĩnh vực. Phát hiện và phát triển khả năng riêng biệt của từng học sinh gắn với hoạt động học tập và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Bồi dưỡng những nhân tố có khả năng riêng biệt nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập của đất nước. 
PHẦN THỨ HAI : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Cơ sở lý luận của vấn đề
Tự tin là tin vào chính bản thân mình, tin vào chính giá trị, những phẩm chất tốt đẹp đang tồn tại bên trong con người mình, tin vào những thành công, những thành quả mà mình đã đạt được trong quá khứ để vững bước đón nhận những thử thách mới trong tương lai; tin vào tài năng của mình, những ước mơ tốt đẹp mà mình theo đuổi và tin rằng dù có phải thất bại đi chăng nữa, mình vẫn có thể thực hiện được nó ở những lần sau. Tự tin trái ngược với sự nhút nhát, rụt rè, thiếu niềm tin vào bản thân và lo sợ phải thất bại, không dám theo đuổi ước mơ. Sự tự tin trong cuộc sống có thể được biểu hiện ở những việc làm nhỏ nhất như tự tin thuyết trình bài học trước lớp, tự tin đóng góp phát biểu ý kiến của mình cho tập thể lớp; cho đến những việc làm lớn hơn như công bố phát minh của một nhà khoa học hay một nhà văn cho ra đời tác phẩm của mình trước công chúng, và còn rất nhiều biểu hiện của sự tự tin trong cuộc sống mà chúng ta không thể kể hết.
Mạnh dạn là không rụt rè, sợ sệt, dám làm những việc mà người khác thường e ngại. Có sự tự tin chúng ta sẽ mạnh dạn hơn trong mọi hoạt động. Sự tự tin và mạnh dạn có vai trò rất quan trọng đối với mỗi con người nói chung và học sinh nói riêng. Đối với cuộc sống của con người, sự tự tin, mạnh dạn giúp ta nhanh chóng thực hiện tốt những mong muốn của mình, có khả năng sống, làm việc, hoà nhập nhanh chóng với cộng đồng. 
Tự tin là một đức tính chỉ có thể có được nhờ vào việc rèn luyện và học hỏi. Tự tin giúp cho con người cũng như học sinh vượt qua mọi khó khăn thử thách trong trường học và cuộc sống, có được điều này học sinh sẽ tin ở năng lực bản thân và luôn hy vọng được mục tiêu của mình, luôn thích thú thử nghiệm những điều mới mẻ và chính những trải nghiệm mới giúp các em học tập tốt hơn, đặc biệt là có những kinh nghiệm, những kỉ niệm khó quên sẽ giúp ích cho các em trong bước đường tương lai phía trước.
Tự tin cũng có nghĩa là học sinh thấy thoải mái hơn với chính mình và có nhiều điều thú vị muốn chia sẻ. Sự tự tin giúp các em tương tác với nhiều người xung quanh, với bạn bè và dễ dàng xây dựng được những mối quan hệ mới, điều này cực kì quan trọng trong thế giới hiện đại, khi mà tình bạn, sự hợp tác, gắn bó không chỉ bó gọn trong khuôn khổ một tỉnh hay một quốc gia. Tự tin sẽ giúp các em thành công trong mọi hoàn cảnh. Đó là một trong những kĩ năng sống rất cần thiết cho mỗi học sinh. 
Ở cấp độ vĩ mô, mục tiêu dạy học hiện nay là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Đi vào cụ thể, nhấn mạnh
 ba mục tiêu chính sau: 
Thứ nhất, trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và các bộ môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên – phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. 
Thứ ba, bồi dưỡng cho học sinh ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Để đạt được những điều trên Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thường xuyên có công văn chỉ đạo và tập huấn cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với thời đại. Đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục THCS nói riêng là vấn đề được đặt ra và thực hiện từ nhiều năm nay. Để thực hiện vấn đề này, đã có nhiều hình thức và biện pháp dạy học được triển khai như: Dạy học nêu vấn đề, tổ chức các hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học 
Những biện pháp và hình thức đó, trong quá trình thực hiện, đã góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh. Tuy nhiên với các em học sinh dân tộc miền núi các em thường ít nói, e dè và dễ xấu hổ, các em thường thiếu những hoài bão ước mơ cần thiết, cho nên những tác động ngoại cảnh dễ làm cho các em này bỏ học. Khi một em có ý định bỏ học thường rủ thêm một số em khác bỏ theo. Nhà trường và chính quyền đã đưa ra nhiều biện pháp để cải thiện vấn đề trên nhưng sự thay đổi là chưa đáng kể. Các em cần có định hướng cho chính mình, tin vào bản thân hơn, tránh những tác động xấu bên ngoài. Một trong những vấn đề này là rèn luyện hơn nữa cho học sinh sự tự tin vào chính bản thân mình và mạnh dạn hơn trong cuộc sống, kiên định với những mơ ước của bản thân. Vì vậy để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học, bên cạnh các biện pháp, hình thức dạy học thì việc rèn luyện các em kĩ năng sống, sự mạnh dạn, sự tự tin là một việc hết sức quan trọng.
 Thực trạng vấn đề
Trường THCS Tô Hiệu đóng trên buôn Năc, xã Ea Bông, huyện Krông Ana, thuộc địa bàn vùng khó khăn, đa phần là đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, nhà trường luôn được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo, được chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Krông Ana. Phòng giáo dục và Đào tạo luôn tạo mọi điều kiện thích hợp cho nhà trường cũng như giáo viên, học sinh học tập và rèn luyện.
Nhà trường bước đầu được trang bị cơ sở vật chất đảm bảo cho việc tổ chức dạy và học, cũng như tổ chức các hoạt động ngoại khóa, giúp các em học sinh hòa đồng và mạnh dạn hơn, giúp giáo viên và học sinh hiểu, thân thiết và gắn bó với nhau hơn. Từ đó giáo viên phát hiện ra các vấn đề khó khăn mà các em gặp phải để nâng cao, rèn luyện tính độc lập, sự tự tin, mạnh dạn cho các em học sinh, đặc biệt là các em học sinh đồng bào ở vùng kinh tế khó khăn. 
Học sinh của trường THCS Tô Hiệu phần lớn là con em đồng bào dân tộc thiếu số nên có học lực không đồng đều, một số học sinh còn rụt rè, kém tự tin không chịu tham gia hoạt động do trường và lớp tổ chức, thiếu hòa đồng với bạn bè. Một số em ngôn ngữ còn gặp khó khăn, chưa chủ động trong giao tiếp với bạn bè xung quanh, các em cảm thấy tự ti so với các bạn. Cụ thể là đối với các em học sinh lớp 7A2, 6A6, 8A1 đa số là học sinh dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn, các em còn rụt rè, thiếu tự tin.
Năm học
Lớp
Dân tộc
Buôn khó khăn
2015-2016
7A2
16/33
30/33
2016-2017
6A6
20/32
30/32
2017-2018
8A1
17/34
33/34
Là một giáo viên, tôi luôn cố gắng trau dồi kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm làm chủ nhiệm để nâng cao chất lượng giảng dạy của mình. Qua thời gian công tác tại trường và được phân công chủ nhiệm nhiều năm tôi đã nhận thấy một số giáo viên còn chưa nắm bắt được hết tình hình thực tế, hoàn cảnh gia đình cũng như tâm lý của lứa tuổi học trò, chưa hiểu rõ sự tự ti, mặc cảm về gia cảnh của các em học sinh.
Sự tự tin rất quan trọng và sự tự tin của chúng ta lớn dần lên nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thấy mình có giá trị. Do đó, giáo viên cần chú tâm là sự phát triển sự tự tin cho học sinh, nghĩa là giúp các em cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với người khác. Kĩ năng sống này giúp các em học sinh cảm thấy tự tin, mạnh dạn đối với các tình huống xảy ra trong cuộc sống. 
Nghệ thuật chủ yếu của thầy cô được thể hiện ở chỗ bản thân thầy, cô giáo biết hòa nhập vào thế giới học trò, có thể trở thành một người bạn, biết tôn trọng và đồng cảm để có thể tìm ra những khúc mắc, những khó khăn của các em khiến các học sinh rụt rè, khó hòa nhập với bạn bè, tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn Từ đó, giúp các em có hiểu biết nhất định, tạo đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức. Đồng thời, tạo tiền đề cho các bạn học sinh vững vàng và tự tin hơn.
Với một chút kinh nghiệm tích lũy được trong công tác chủ nhiệm, tôi mạnh dạn giới thiệu với các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp, một số giải pháp trong việc rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin trong học tập cho học sinh, đặc biệt là các em học sinh vùng khó khăn, học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Rèn luyện sự tự tin, mạnh dạn cho học sinh đòi hỏi giáo viên phải có định hướng, có mục đích để giáo dục, phát triển học trò. Tác động sư phạm của giáo viên phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội. Ngoài ra, giáo viên cần phải luôn tôn trọng học sinh, phải có cái tâm và lòng nhiệt tình kết hợp với phương pháp hợp lý thì sẽ đem lại thành công. Với kinh nghiệm trong quá trình làm công tác chủ nhiệm, để đạt được hiệu quả trong việc rèn luyện sự tự tin, mạnh dạn cho học sinh, tôi đưa ra các giải pháp cụ thể sau đây:
Giải pháp 1. Chủ động nắm bắt tình hình, đặc điểm tâm lý học sinh
Khi bắt đầu vào năm học mới giáo viên chủ nhiệm cần phải chủ động nắm bắt và tìm hiểu rõ hoàn cảnh gia đình và tình hình học tập cũng như tính cách của các em, đặc biệt là học sinh cá biệt, học sinh nghèo, học sinh đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hồ sơ của nhà trường, qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn cũ hay thông qua cha mẹ học sinh hoặc thông qua các em học sinh khác. Có những đánh giá sơ bộ về tình hình học tập, nề nếp cũng như các mặt mạnh và các mặt còn hạn chế của các em trong quá trình học tập và vui chơi từ các năm học đã qua.
Một khảo sát nhỏ đầu năm học lớp 7A2 và 6A6, 8A1 về sự tự tin, dám đứng trước lớp giới thiệu bản thân và tổ chức một trò chơi nào đó, thu được kết quả sau:
Năm học
Lớp
TSHS
HS thực hiện tốt
HS còn lúng túng
HS ngại đứng trước lớp
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
2015-2016
7A2
33
1
3
3
9
29
88
2016-2017
6A6
32
1
6
4
13
27
81
2017-2018
8A1
34
4
12
6
17
24
71
Với từng học sinh và từng hoàn cảnh cần phải có những biện pháp hỗ trợ cũng như bồi dưỡng riêng. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định rõ phương pháp, kĩ năng mà các em cần được trang bị chính là tính mạnh dạn, tự tin. 
Giáo viên nên linh hoạt trong các giờ dạy cũng như tổ chức sinh hoạt để giúp học sinh không chỉ vừa học mà các em có thể vừa vui chơi, mạnh dạn tự tin thể hiện bản thân mình trước đám đông từ quy mô nhỏ như lớp học đến quy mô lớn hơn là cộng đồng, toàn thể trường học.
Ghi nhận những thành tích mà các em đã đạt được. Có phiếu đánh giá riêng cho từng học sinh đặc biệt là khích lệ động viên các em học sinh đã có cố gắng khắc phục tính e dè, đã có thể tự tin thể hiện mình dám nghĩ, dám làm trước đám đông.
Ví dụ: Đầu năm học 2015-2016 tôi đã được nhà trường tin tưởng phân công chủ nhiệm lớp 7A2, tôi đã xem xét hồ sơ và trao đổi ý kiến với giáo viên chủ nhiệm cũ của các em. Tôi đã phát hiện được những em học sinh có năng lực tốt trong các môn văn hóa và thể thao để các em có cơ hội tham gia vào các cuộc thi. Đặc biệt tôi nhận thấy có trường hợp đặc biệt là em Y- Óc một em học sinh hiếu học nhưng có hoàn cảnh khó khăn, và đang có ý định thôi học đi làm phụ giúp gia đình. Tôi đã gặp và trao đổi với em và phụ huynh cũng như huy động các nhà hảo tâm giúp em có điều kiện học tập như bao bạn khác. Cho tới nay, sau hai năm, em đã có những thành tích cao trong học tập cũng như thể thao và đã có đủ hành trang để bước vào ngôi trường cấp 3 mà em mong muốn.
Giải pháp 2. Tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm, hoạt động nhóm cho các em để các em có cơ hội tham gia hợp tác nhóm, bày tỏ quan điểm cá nhân
Giáo viên muốn tổ chức tiết sinh hoạt sinh động, thú vị thì song song với việc cho học sinh báo cáo những việc của tuần học qua, giáo viên nên phối hợp tổ chức hoặc cho ban cán sự tổ chức các trò chơi trí tuệ, các hoạt động trải nghiệm, văn nghệ để các em cảm thấy hòa đồng, tự tin, xây dựng tinh thần tập thể.
Giáo viên tạo không khí học tập, vui chơi tự giác thể hiện một cách tự nhiên về sự hiểu biết của các em với nội dung mà giáo viên và học sinh đã tìm hiểu trước đó.
Giáo viên nên tổ chức, điều khiển hoạt động có hiệu quả (tránh gây ồn ào, ganh đua, mất trật tự, gây gổ đánh nhau). Điều đó ảnh hưởng đến sự đoàn kết, tập thể và mối quan hệ của các em sau này. Đảm bảo các em không làm việc riêng hay thiếu tập trung hợp tác trong quá trình hoạt động.
Giáo viên sử dụng ngôn từ, ngữ điệu nhẹ nhàng, rõ ràng, tránh sự khó hiểu về câu hỏi hay yêu cầu được đặt ra làm ảnh hưởng cả giờ sinh hoạt.
Giáo viên nên chú trọng tạo bầu không khí thân thiện với các em, có thái độ ân cần, niềm nở, tận tụy trong việc giảng giải, tránh dùng những lời nói vô tình, xúc phạm đến các em kể cả khi các em trả lời chưa chính xác. Giáo viên cũng khéo léo nhờ bạn khác giúp những bạn đang gặp khó khăn, tránh nhắc lại những nguyên nhân hay lý do hoàn cảnh vì điều đó làm mất dần sự tự tin, lâu ngày các em sẽ nhút nhát và thụ động. Chỉ khi nào em đó quá thụ động không chịu mạnh dạn tự tin trước lớp thì hãy nhắc nhở và tìm biện pháp khắc phục. Vận dụng triệt để kĩ năng xử lí tình huống sư phạm để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình học tập và vui chơi của các em.
Hình 1. Học sinh lớp 8A1 hăng hái tham gia trò chơi lồng ghép.
Nội dung và mức độ của các hoạt động cần phải phù hợp với kiến thức và kĩ năng của các em học sinh. Cần nhận xét, sửa lỗi sai kịp thời cho các em, giúp các em củng cố kiến thức và có hướng vận dụng hiệu quả hơn.
Một số hoạt động trải nghiệm như:
 Xây dựng tủ sách thư viện: Dành cho cán bộ giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh toàn trường đóng góp sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, nơi các em học sinh được tự do trao đổi tài liệu với nhau.
 Vườn rau thực hành: Vườn rau thực hành sẽ góp phần tạo điều kiện cho học sinh có điều kiện thực hành về kĩ thuật trồng hoa, rau, củ, quả và góp phần tạo ra môi trường xanh, đẹp và giúp học sinh tạo ra những thực phẩm sạch.
Hình 2. Một số hình ảnh về các hoạt động trải nghiệm.
 Trò chơi dân gian – thể dục thể thao: Một số trò chơi như nhảy bao bố, đi xe đạp chậm,hay các môn thể thao như đá cầu, đánh bóng chuyền, tạo điều kiện cho cán bộ giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh giao lưu và luyện tập lẫn nhau.
Dặn dò các em những điều cần thiết (thu dọn phương tiện, vệ sinh nơi chơi,). 
Hình 3. các em học sinh chuẩn bị và tham gia các trò chơi ngoại khóa do trường tổ chức.
 Tập làm việc tốt: Thay tiết sinh hoạt lớp bằng hành động ý nghĩa, các em tập kinh doanh, bán hàng, quyên góp phần công nhỏ cho những bạn khó khăn.
Hình 4. Các em học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm làm từ thiện ủng hộ bạn nghèo.
Hoạt động nhóm sẽ giúp các em tăng cường hoạt động, tinh thần đoàn kết cũng như phát triển tư duy cao. Rèn luyện tốt khả năng xử lý tình huống cũng như tinh thần tập thể. Việc tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm ở các tiết sinh hoạt là tạo được môi trường thuận lợi để hình thành nhân cách cũng như kỹ năng sống của các em được hoàn thiện. Việc tổ chức trò chơi được giáo viên và học sinh có thể tiến hành như sau:
Ví dụ: Trò chơi truy tìm mật thư (dành cho các buổi sinh hoạt hay ngoại khóa)
Bước 1: Chuẩn bị trò chơi:
 Trước tiên giáo viên phải xem xét đối tượng và mục đích của trò chơi là gì? Thông thường trò chơi nào cũng mang tính giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là góc độ tiếp cận khác nhau của học sinh đối với từng loại trò chơi.
 Sau khi đã tìm hiểu và xem xét kĩ giáo viên tiến hành phổ biến trò chơi cho học sinh, yêu cầu các ban cán sự phân công giáo việc và tiến hành chuẩn bị các dụng cụ thích hợp đối với trò chơi (đối với trò chơi truy tìm mật thư thì học sinh cần thiết chuẩn bị máy tính, giấy, bút, đặc biệt nên tìm và học hỏi các kí hiệu đặc biệt có trong sổ tay đoàn viên)
 Thông báo kế hoạch, thời gian, nội dung trò chơi đến học sinh.
Bước 2: Tiến hành trò chơi:
Trước tiên giáo viên cùng ban cán sự lớp ổn định tổ chức đổi hình và kiểm tra các dụng cụ cần thiết. Nếu có đi tới địa điểm khác lớp hoặc trường thì phải phân công ban các sự điểm danh các thành viên trong lớp rồi mới tiến hành đi đến địa điểm.
Giáo viên tiến hành phổ biến ngắn gọn lại luật chơi cho các em một lần nữa: 
Thông báo tên trò chơi: truy tìm mật thư.
Chủ đề: Nâng cao tinh thần đoàn kết, mạnh mẽ tư tin cho các em, rèn luyện sự tự tin, mạnh dạn cho học sinh.
 Luật chơi: Ban cán sự phân chia lớp thành 4 nhóm (8-10 người/1 nhóm), mỗi nhóm sẽ phải chia nhau đi tìm khắp sân trường những mật thư đã được giấu kín sau đó bằng những dụng cụ đã mang theo giải quyết thật nhanh những mật thư ấy, đội nào hoàn thành được 4 mật thư và về đích trước sẽ là người chiến thắng.
 Yêu cầu của trò chơi: các em cố gắng hoạt động theo nhóm đã phân công không cãi nhau gây xích mích, không tranh giành mật thư với các đội chơi khác. Cố gắng cùng nhóm giải quyết mật thư một cách nhanh nhất.
 Giáo viên cho học sinh chơi nháp/chơi thử 1 -2 lần, sau đó học sinh bắt đầu chơi thật.
 Dùng mệnh lệnh bằng âm thanh (còi, kẻng, chuông, trống) để điều khiển cuộc chơi.     
 Giáo viên hay nhóm trọng tài cần quan sát, theo d

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_ren_luyen_su_manh_dan.doc