Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5
Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong dạy học Tiếng việt ở Tiểu học bởi vì nó rèn cho học sinh kỹ năng sản sinh văn bản (nói và viết).
Nhờ vậy Tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà nó trở thành một công cụ quan trọng trong giao tiếp, tư duy và học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt là sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt được chia thành các phân môn, mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh những kĩ năng nhất định. Phân môn Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất, nó có vai trò rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng, trong đó quan trọng là các kĩ năng (nghe, nói, viết). Đối với phân môn này, các em được rèn luyện năng lực trình bày ở dạng văn bản với nhiều thể loại khác nhau.
Qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học Trung Tiến, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó nhất trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Để thực hiện được mục tiêu của phân môn Tập làm văn là phải xây dựng được kĩ năng nói và viết thành thạo, các em cần huy động tất cả các kiến thức của các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Trong khi đó, các em chưa hoàn thành thì rất “chán” học phân môn này. Do đó các em lơ là ngại tiếp xúc với phân môn này, do chưa biết diễn đạt ý bằng những câu văn hay, sử dụng từ chưa hợp lý, ý tưởng còn khô khan, chưa dồi dào phong phú Chính vì vậy giáo viên cần giúp học sinh chọn ý, diễn đạt tốt gây ham mê hứng thú trong giờ học.
Với học sinh lớp 5, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho các em là cần thiết. Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp lên các lớp trên. Việc giúp các em hoàn thành tốt bài văn miêu tả không những sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học mà còn giúp các em khám phá được những cái đẹp qua việc xây dựng văn bản.
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, dạy cho học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học
sinh lớp 5.
1.MỞ ĐẦU 1.1.Lí do chọn đề tài: Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong dạy học Tiếng việt ở Tiểu học bởi vì nó rèn cho học sinh kỹ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nhờ vậy Tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà nó trở thành một công cụ quan trọng trong giao tiếp, tư duy và học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt là sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt được chia thành các phân môn, mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh những kĩ năng nhất định. Phân môn Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất, nó có vai trò rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng, trong đó quan trọng là các kĩ năng (nghe, nói, viết). Đối với phân môn này, các em được rèn luyện năng lực trình bày ở dạng văn bản với nhiều thể loại khác nhau. Qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học Trung Tiến, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó nhất trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Để thực hiện được mục tiêu của phân môn Tập làm văn là phải xây dựng được kĩ năng nói và viết thành thạo, các em cần huy động tất cả các kiến thức của các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện,Trong khi đó, các em chưa hoàn thành thì rất “chán” học phân môn này. Do đó các em lơ là ngại tiếp xúc với phân môn này, do chưa biết diễn đạt ý bằng những câu văn hay, sử dụng từ chưa hợp lý, ý tưởng còn khô khan, chưa dồi dào phong phúChính vì vậy giáo viên cần giúp học sinh chọn ý, diễn đạt tốt gây ham mê hứng thú trong giờ học. Với học sinh lớp 5, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho các em là cần thiết. Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp lên các lớp trên. Việc giúp các em hoàn thành tốt bài văn miêu tả không những sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học mà còn giúp các em khám phá được những cái đẹp qua việc xây dựng văn bản. Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, dạy cho học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5. 1.2.Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu những khó, thuận lợi của giáo viên và học sinh trong dạy học dạy văn miêu tả nói riêng và dạy Tập làm văn nói chung, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn cho học sinh lớp 5. 1.3.Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5” 1.4.Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu. + Phương pháp điều tra nghiên cứu. + Phương pháp thống kê và thực nghiệm sư phạm. 2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN 2.1.Cơ sở lí luận: Theo yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, giáo viên không còn đóng vai trò truyền thụ kiến thức cho học sinh chủ yếu bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải để học sinh thụ động nghe và ghi nhớ như trước đây. Hiện nay, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên trở thành người tổ chức, điều khiển quá trình dạy học để học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức. Giáo viên nói ít, học sinh làm nhiều. Ở học sinh lớp 5, khả năng nhận thức của các em đã được phát triển ở các lớp trước, tư duy bắt đầu có chiều hướng bền vững và đang ở giai đoạn phát triển. Học sinh lớp 5 đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi vật xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể hơn khả năng khái quát hóa. Các em nhạy cảm hơn trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, dễ xúc động và bắt đầu biết mơ ước. Nhưng vốn ngôn ngữ của các em chưa phong phú, sắp xếp ý chưa có hệ thông và diễn đạt còn chưa mạch lạc gãy gọn. Để làm được một bài tập làm văn, học sinh phải huy động vốn kiến thức từ nhiều mặt: Như hiểu biết về cuộc sống, trí thức về văn học, khoa họcPhân môn Tập làm văn có tính chất tổng hợp, có quan hệ chặt chẽ với việc dạy học Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đây là nơi tiếp nhận và cũng là nơi luyện tập nhuần nhuyễn các kĩ năng và kiến thức các phân môn trên. Bài tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực nhất của việc học Tiếng Việt. Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi người. Với cộng đồng nó là cộng cụ để giao tiếp và tư duy. Với học sinh Tiểu học thì lại càng quan trọng hơn. Chình vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu người giáo viên Tiểu học cần ghi nhớ thường xuyên thể hiện ba quan điểm khi tổ chức dạy học Tiếng Việt là: Quan điểm giao tiếp - quan điểm tích hợp và quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Để giúp các em có những kiến thức diễn đạt được câu văn, đoạn văn, hoàn chỉnh một bài văn miêu tả, người giáo viên phải có những phương pháp lôgic thông qua các tiết dạy. Mục đích cuối cùng chính là giúp các em vận dụng kiến thức tổng hợp của các phân môn để viết được một bài văn hoàn chỉnh. Để đạt được điều đó, tôi thấy rằng mình phải biết tổ chức cho học sinh được tham gia các hoạt động dưới nhiều biện pháp mang tính đồng bộ và lồng ghép một cách thường xuyên trong từng tiết học. Phải giúp học sinh biết quan sát tìm ý, diễn đạt câu văn bằng ngôn ngữ giao tiếp. Từ đó câu văn trở nên phong phú, giàu hình ảnh làm nên đoạn văn hay, bài văn hay. 2.2.Thực trạng: Đối tượng học sinh tôi giảng dạy là các em thuộc vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, vốn ngôn ngữ cũng như nhận thức của các em còn hạn chế. Vì vậy vẫn còn một số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động học tập. 2.2.1.Thuận lợi: *Giáo viên: Hầu hết giáo viên ra trường nhiều năm, cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy cho học sinh. *Học sinh: Đa số học sinh có đủ sách giáo khoa và các đồ dùng học tập. 2.2.2.Hạn chế: *Giáo viên: - Việc vận dụng phương pháp dạy học tích hợp chưa được giáo viên vận dụng triệt để nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho các em trong một tiết Tập làm văn thường rất lớn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học. - Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám “thoát li” khỏi các gợi ý của sách giáo khoa, sách tham khảo vì sợ sai kiến thức và không đủ thời gian cho một tiết học. *Học sinh: Hầu hết các em là dân tộc Thái nên việc vận dụng kiến thức đã học vào làm văn là rất khó khăn. Nhiều em chưa vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học trong các phân môn của môn Tiếng Việt, của các môn học khác, của các lớp dưới vào học tập môn Tập làm văn. Chẳng hạn, khi dạy cho học sinh cấu tạo một bài văn tả người, giáo viên cần hướng dẫn các em tìm hiểu văn bản mẫu để rút ra nhận xét. Trong khi đó, nếu dựa trên kiến thức đã học về văn miêu tả ở lớp 4 để hình thành cho các em cấu tạo bài văn tả người ở lớp 5 rõ ràng là nhanh hơn. - Học sinh trong trường, đa số là các em viết văn chưa tốt: nghèo ý, dùng từ chưa chính xác, diễn đạt còn lủng củng.... Với đối tượng học sinh này, việc học tập của các em còn gặp một số khó khăn sau: + Tiếng Việt là tiếng nói để giao tiếp của các em nhưng vốn Tiếng Việt lại rất hạn chế vì các em chỉ thông thạo tiếng địa phương. Trong khi đó, việc học kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 5 lại yêu cầu vốn từ ngữ, năng lực tư duy phải phong phú. Nhưng vốn từ của các em chưa phong phú, chưa hiểu hết nghĩa của từ nên việc vận dụng vào bài làm còn nhiều sai sót. + Chương trình Tiếng Việt có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy sáng tạo của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số đặc biệt là những em chưa Hoàn thành. + Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương pháp “làm mẫu” đối với học sinh chưa Hoàn thành, từ đó dẫn đến tình trạng học sinh nhiều em không động não mà“coppy” nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu. + Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học. + Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh chưa hoàn thành, cá biệt, có học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc dạy học Tập làm văn cho các em. Với những học sinh này, yêu cầu đặt từng câu văn rời rạc còn khó, nói gì đến việc hướng dẫn các em đặt một đoạn văn theo yêu cầu. + Trong địa bàn trường tôi, hầu hết học sinh là dân tộc Thái, có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Mặt khác, vấn đề thời tiết cũng là một nguyên nhân dẫn đến học sinh đi học không đều, dẫn đến việc tiếp thu bài của các em chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. + Kĩ năng làm văn miêu tả của các em học sinh chưa đạt hầu như không có. Các em chưa biết cách quan sát, thực hiện làm một bài văn miêu tả chưa đúng quy trình, chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc để đưa vào bài văn, làm cho bài văn thành “một mớ hỗn độn” của các chi tiết hoặc là thành “một bản liệt kê” với rất nhiều chi tiết. - Với học sinh Hoàn thành, việc dạy học Tập làm văn cũng gặp một số tồn tại sau: + Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng phương pháp làm mẫu để tạo đà giúp học sinh chưa Hoàn thành làm văn. Tuy nhiên, một số học sinh học lại thường hay bắt chước các câu, đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các câu, đoạn giống nhau. + Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh Hoàn thành tốt và học sinh Hoàn thành, Chưa hoàn thành nên giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp “hiện đại” để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục. Nếu chú ý đến học sinh Hoàn thành tốt thì sẽ bỏ qua học sinh Hoàn thành, Chưa hoàn thành. Nhưng nếu tập trung vào học sinh Hoàn thành, Chưa hoàn thành, kiên trì với đối tượng này đạt được yêu cầu bài văn thì lại ảnh hưởng đến sự phát triển của số học sinh Hoàn thành tốt. + Học văn miêu tả, làm văn miêu tả nhưng nhiều học sinh lại thiếu vốn sống thực tế nên dẫn đến một số tình huống hay gặp trong dạy học văn miêu tả như: Học sinh không biết làm bài nên làm bài văn rất ngắn - khoảng 4, 5 dòng; các em sử dụng các gợi ý của giáo viên hay sử dụng các đoạn văn mẫu để viết. + Một khó khăn nữa là nhiều học sinh viết chữ chưa đẹp, nếu không nói là viết xấu, sai chính tả. Nhiều bài văn có chữ viết lem nhem, đầy vết bẩn. Với một bài văn đầy lỗi chính tả, tẩy xoá thì việc đọc lại bài, trau chuốt câu văn, sửa ý, sửa từ quả là khó khăn, gian khổ. *Cha mẹ học sinh: Cha mẹ các em hầu như ít quan tâm đến việc học hành của các em, họ chỉ phó mặc cho nhà trường. Do phải vất vả với việc nương rẫy, mưu sinh, do nhận thức chưa đúng về giáo dục, do hiểu biết và trình độ còn hạn chế, dân trí thấp chỉ nghĩ con mình đọc, viết được là tốt 2.2.3.Nguyên nhân của thực trạng: Từ những thực trạng nêu trên, tôi đã tìm hiểu và rút ra một số nguyên nhân sau: Do điều kiện công việc của phụ huynh nên việc kèm cặp, rèn luyện các em có hạn chế. Đa số các em là dân tộc Thái việc sử dụng Tiếng Việt còn nhiều hạn chế dẫn đến việc các em viết được một bài văn hoàn chỉnh còn gặp rất nhiều khó khăn. Khi học bài và làm bài vốn từ của các em rất hạn chế, chỉ biết liệt kê một cách máy móc máy móc, chung chung. Giáo viên không đầu tư, nghiên cứu cho bài giảng, dẫn đến kết quả truyền đạt kiến thức không cao, học sinh không được mở rộng vốn từ, không cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tự nhiện. Tư cơ sở lí luận và thực tiễn trên, tôi đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm. Tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài văn miêu tả cho học sinh lớp 5. Với phạm vi nghiên cứu như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan, góp phần thực hiện nhiệm vụ của một nhà giáo trong giai đoạn mới. Tìm ra những biện pháp tốt nhất để giúp học lớp 5A Trường Tiểu học Trung Tiến học tốt kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn chương trình lớp 5 (văn miêu tả) 2.3.Một số biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 5: 2.3.1.Điều tra phân loại học sinh: Ở đây đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình, có lòng yêu nghề, mến trẻ, gần gũi thân thiết với từng đối tượng học sinh nhằm điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh: Năng khiếu, Hoàn thành tốt, Hoàn thành, Chưa hoàn thành và học sinh cá biệt. Nắm chắc được đối tượng học sinh, giáo viên sẽ tìm ra được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần phụ đạo học sinh chưa đạt biết làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh. Cụ thể môn Tiếng Việt như sau: Tổng số HS HT tốt HT Chưa HT SL TL SL TL SL TL SL TL 16 100% 3 18,75% 7 43,75% 6 37,5% 2.32.Chọn đề tài gần gũi, quen thuộc với học sinh: - Học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số khó có thể viết được những bài văn miêu tả chỉ bằng quan sát qua tranh ảnh, phim,Và đối với những học sinh chưa đạt của trường tôi, những đề tài xa lạ là điều cần tránh. Các em đến trường học tập bằng ngôn ngữ Tiếng Việt tương đối hạn hẹp mà giáo viên lại yêu cầu các em hình dung, tưởng tượng rồi đặt câu, viết một bài văn miêu tả hoàn chỉnh với một đối tượng mà các em chưa nhìn thấy bao giờ thì đúng là điều quá sức tưởng tượng đối với các em. Ví dụ: Đề bài trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5- tập 2- trang 144 tuần 32: Tả một khu vui chơi, giải trí mà em thích. Với những đề bài như thế này, tôi mạnh dạn thay bằng đề bài khác, ví dụ Tả quang cảnh quê em vào một buổi sáng đẹp trời. Hoặc Tả con suối quê em vào một buổi sáng đẹp trời (thông qua buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ tôi đã mạnh dạn đưa ra ý tưởng này và được nhiều giáo viên áp dụng) - Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không cho học sinh có cơ hội phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo của mình. Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh như lớp tôi, khi ra đề bài cho các em, tôi luôn tạo cho các em quyền lựa chọn bằng cách ra nhiều đề bài (từ 2 đến 4 đề) để các đối tượng trong lớp đều có thể tự do lưa chọn đề bài thích hợp cho năng lực mình, tránh áp đặt cho các em. Ví dụ: Khi ra đề bài tả người cho các em làm bài kiểm tra viết, tôi chọn ba đề bài sau: a) Tả một người thân trong gia đình em. b) Tả một người bạn mà em yêu thích nhất. c) Tả thầy giáo hoặc cô giáo cũ mà em kính mến. Với ba đề bài trên, các em có thể chọn đối tượng miêu tả là một nhân vật quen thuộc, gần gũi. Nhưng với một vài học sinh khác, các em cũng có thể chọn tả ca sĩ, hay nghệ sĩ đang biểu diễn với rất nhiều chi tiết sống động mà các em đã có dịp quan sát trên ti vi qua các chương trình ca nhạc hoặc phim ảnh. 2.3.3.Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát: Khi dạy học sinh kĩ năng quan sát, ta phải hướng cho các em cách quan sát theo trình tự từ xa đến gần và ngược lại, từ trong ra ngoài, từ bao quát đến chi tiết cụ thể và ngược lại. Ghi chép những điều đã quan sát được. Tổ chức quan sát từng đối tượng cụ thể. Có thể hướng dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực tiếp đối tượng (buổi chào cờ đầu tuần, quang cảnh trước buổi học, trong giờ ra chơi, thầy giáo, cô giáo, người thân,); quan sát ở nhà (ngôi nhà em đang ở, buổi sum họp của gia đình, quang cảnh con đường nơi em ở vào buổi sáng, ); quan sát qua báo, đài (một ca sĩ, nghệ sĩ đang biểu diễn, một danh hài mà em thích, .); 2.3.4.Hướng dẫn học sinh lập dàn ý: Đây là một việc làm vô cùng quan trọng khi viết một bài văn. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng. 2.3.5.Cụ thể hoá hoạt động dạy học: - Quan tâm đến đối tượng học sinh chưa đạt đồng thời vẫn đảm bảo phát triển năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh có năng khiếu. Ví dụ: Tả quang cảnh một buổi sáng trên cánh đồng quê em. + Bài làm của một học sinh có năng lực: Buổi sáng hôm ấy, một buổi sáng đầy sương thu và gió se lạnh, em theo mẹ ra đồng. Trước mắt em cánh đồng như một bức tranh tuyệt đẹp. Bài của một học sinh trung bình: Một buổi sáng, em theo mẹ ra đồng. Cánh đồng quê em đang vào mùa gặt. + Bài làm của một học sinh chưa đạt: Trước nhà em có một cánh đồng. - Khi học sinh đặt câu nêu cảm nghĩ của mình ở phần kết bài, giáo viên phải quan tâm đến từng em. Đối với học sinh bình thường, giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cho các em bằng những gợi ý như: + Em hãy nói tình cảm của mình đối với quê hương (yêu, ghét)? (Em rất yêu cánh đồng lúa quê em vì đã nuôi sống chúng em ). + Em thể hiện tình yêu đó bằng những việc làm như thế nào ? (chăm sóc, vệ sinh môi trường xung quanh mương máng, không chặt phá cây xanh..) - Tuyệt đối không được hướng dẫn học sinh một cách đồng loạt để các em có những câu văn nghĩa chung chung như: “Mẹ em có mái tóc đen huyền, mượt như nhung. Đôi mắt của mẹ sáng long lanh. Nước da mẹ ngăm đen” hay “Trường em lợp ngói đỏ. Cột cờ cao chót vót. Trên đỉnh cột cờ, lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Giờ ra chơi, chúng em chạy ùa ra sân..” Phải hướng dẫn để học sinh tìm ra những nét riêng đặc sắc của cảnh. Những nét đặc sắc đó giúp người đọc hình dung được cảnh vật cụ thể mà không lẫn lộn với cảnh vật khác. Ví dụ: Để hướng dẫn học sinh tả con suối quê em, tôi cho học sinh quan sát, tìm ý và chọn những chi tiết mà chỉ quê em mới có: “Ngày nào đi học em cũng qua một con suối nhỏ. Con suối này rất quen thuộc với người dân bản em. Trước khi về tới bản, con suối đã chảy qua rất nhiều cánh rừng. Suối không rộng lắm.chỉ chừng hơn một sải tay người lớn. Vậy mà quanh năm nước không bao giờ cạn.” 2.3.6.Sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu: Đây là một phương pháp mà giáo viên hay sử dụng. Nhưng không phải giáo viên nào cũng sử dụng có hiệu quả mà chúng ta cần gợi ý cho học sinh có năng khiếu làm bài, trình bày câu văn, đoạn văn. Cả lớp theo dõi, nhận xét, giáo viên chốt lại. Nhưng điểm mấu chốt là giáo viên phải chú ý từng đối tượng học sinh, sửa chữa từng em, động viên sự sáng tạo của các em, dù là rất nhỏ. Dựa trên một đề văn cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học về đề văn đó để làm nhiều bài khác nhau, nhất là với đối tượng học sinh chưa đạt. Ví dụ: Học bài văn tả người thân, học sinh tả bố em. Khi gặp một đề văn yêu cầu tả một người hàng xóm, học sinh có thể sử dụng thứ tự miêu tả, bố cục, các biện pháp nghệ thuật đã sử dụng ở đề bài trước để thực hiện làm đề bài thứ hai. Tất nhiên, giáo viên phải giúp học sinh tránh sự sao chép nguyên văn bài trước. 2.3.7.Làm giàu vốn từ cho học sinh: Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ gợi tả mái tóc (vàng hoe, đen nhánh, bạc phơ, cháy nắng, óng ả, xoăn tít,); đôi mắt (long lanh, tròn xoe, hiền dịu) khuôn mặt (bầu bĩnh, vuông chữ điền, trái xoan, khắc khổ, hiền từ); nước da (trắng trẻo, trắng hồng, ngăm ngăm, bánh mật, đen sạm, ngăm đen); dáng người (nhỏ nhắn, gầy gò, cân đối, to khoẻ, cao cao, xinh sắn); nụ cười (khanh khách, sằng sặc, tủm tỉm, ha hả, khà khà); bước đi (nhanh nhẹn, vội vã, uyển chuyển, chậm chạp) Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát người thân), quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách, nhất là qua các phân môn của Tiếng Việt hoặc các môn học khác và qua nhiều hình thức khác nhau. 2.3.8.Giúp học sinh luyện viết câu: - Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu cơ bản (vì câu là đơn vị lời nói). Đối với học sinh năng khiếu, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Đối với học sinh chưa đạt, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng, thể hiện được ý cần nói. * Luyện sửa chữa câu sai gồm: +Sai về ngữ pháp (thiếu, thừa chủ ngữ, vị ngữ, câu rườm rà) +Sai về ý, sắp xếp ý. +Làm cho câu văn trở nên cụ thể, sinh động bằng cách dùng từ phù hợp với ngữ cảnh hay các biện pháp tu từ như: nhân hóa, so sánh, đảo ngữ, điệp từ, điệp ngữ... Ví dụ: Miêu tả làn da của một bạn. + Với học sinh chưa Hoàn thành: Da bạn Ngọc Linh rất đen.
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_lam_van_m.doc